10/5/09

VIỆT NAM-TRUNG QUỐC Tranh chấp mới : ranh giới ngoài thềm lục điạ

Bài đăng ngày 09/05/2009 Cập nhật lần cuối ngày 09/05/2009 13:34 TU

Bản đồ Biển Đông

Bản đồ Biển Đông

Tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc lại nổi lên trong tuần này với việc chính phủ Hà Nội nộp bản báo cáo về Ranh giới ngoài thềm lục điạ.

Bản báo cáo này đã được nộp cho Uỷ ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc ngày 7/5. Hạn chót để nộp bản báo cáo này là 13/5.

Như vậy là Việt Nam đã đợi đến những ngày cuối mới nộp báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục điạ, có lẽ để tránh tối đa phản ứng của phía Trung Quốc. Để không có vẻ như hành động đơn lẻ, trước đó một ngày, Việt Nam cũng đã phối hợp với Malaysia trình Liên Hiệp Quốc bản báo chung về khu vực thềm lục điạ kéo dài liên quan đến hai nước.

Theo Công ước Luật Biển, nếu rìa lục điạ của một quốc gia ven biển nhỏ hơn 200 hải lý tính từ đường cơ sở, thì thềm lục địa của quốc gia đó là 200 hải lý, còn nếu rìa lục điạ của một quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý, thì quốc gia đó có quyền mở rộng thềm lục điạ ra khỏi phạm vi 200 hải lý, nhưng tối đa không quá 350 hải lý.

Muốn xác định thềm lục điạ mở rộng thì quốc gia đó phải nộp báo cáo trước ngày 13/5. Đây là trường hợp của Việt Nam.

Có điều, thềm lục địa mở rộng như vậy sẽ lấn sang đường ranh giới, gọi là ranh giới lưỡi bò mà Trung Quốc đã tự vạch ra để xác định lãnh hải của mình trên vùng biển Đông. Cho nên, Bắc Kinh đã phản ứng ngay lập tức.

Ngay trong ngày 7/5, phái đoàn Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã gởi một công hàm phản đối việc Việt Nam nộp báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục địa và yêu cầu Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc không xem xét báo cáo này.

Trong cuộc họp báo ngày hôm qua (08/05) tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Mã Chiêu Húc, cũng đã tuyên bố rằng báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam '' đã xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc'' ở vùng biển mà họ gọi là Nam Trung Hoa.

Cũng trong ngày hôm qua, tại Hà Nội, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam, ông Lê Dũng đã phản bác công hàm của phía Trung Quốc, cho rằng nội dung bản công hàm này « đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông ». Theo ông Lê Dũng, bản đồ mà Trung Quốc gởi kèm theo bản công hàm nói trên là ''không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn''.

Trước khi nộp báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục điạ, Việt Nam cũng đã có một hành động đáng chú ý, đó là bổ nhiệm một chủ tịch cho huyện đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm giữ từ năm 1974 cho đến nay, một hành động đã đã bị Bắc Kinh cho là ''bất hợp pháp và không có giá trị''.

Mặc dù quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đang ngày càng chặt chẽ hơn, thể hiện qua việc thiết lập đường dây điện thoại nóng giữa lãnh đạo hai nước, nhưng rõ ràng Hà Nội vẫn phải dè chừng láng giềng phương Bắc, vào lúc mà Trung Quốc đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là binh chủng Hải quân. Đáng lo ngại hơn cả là Bắc Kinh đã thiết lập một căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam.

Để tăng cường khả năng phòng thủ, gần đây, Việt Nam đã đặt mua sáu tàu ngầm tấn công của Nga, trị giá tổng cộng 1,8 tỷ đôla, một món tiền rất lớn so với ngân sách quân sự hàng năm của Việt Nam mà hiện được thẩm định là chỉ vào khoảng 3,6 tỷ đôla, theo tạp chí Jane Intelligence Review.

Hiểm họa phương Bắc không chỉ đến từ đường biển, mà nay còn đến từ đường bộ, thể hiện qua việc hàng chục ngàn kỹ sư, chuyên viên, công nhân Trung Quốc đang có mặt ở vùng Tây Nguyên để làm việc cho dự án khai thác bauxite, một dự án bị xem là chẳng có lợi gì về mặt kinh tế, mà chỉ gây tác hại nghiêm trọng về môi trường và nhất là rất nguy hiểm về mặt an ninh quốc phòng.

Theo hãng tin Reuters, khi tiếp thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm hôm thứ năm vùa qua nhân kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc lại quan điểm của ông là phải ngưng ngay lập tức các dự án bauxite, vì Tây Nguyên là một vùng có tầm chiến lược quan trọng không chỉ đối với Việt Nam, mà cả đối với toàn bộ Đông Dương.

Nhưng cho tới giờ, giới lãnh đạo Hà Nội vẫn không nghe theo lời kêu gọi đó và chính vì thế họ vẫn tiếp tục bị dư luận xem là nhân nhượng Trung Quốc quá mức.

3/5/09

Giới trí thức, văn nghệ sĩ đồng thanh yêu cầu ngừng dự án khai thác bauxit Tây Nguyên

Bài đăng ngày 27/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày 28/04/2009 15:11 TU

Khai thác bauxit Tây Nguyên
Vào lúc dư luận Việt Nam phản đối ngày càng mạnh dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên, một nhóm trí thức gồm giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Văn học, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng và nhà văn Phạm Toàn đã khởi xướng một bản kiến nghị đề ngày 12/4.

Bản kiến nghị với chữ ký của hơn 130 người đầu tiên, đa số là các nhà trí thức, văn nghệ sĩ có tên tuổi trong và ngoài nước, đã bày tỏ mối quan ngại của họ về dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên.

Thứ nhất là kế hoạch khai thác bauxit được công khai hóa vào cuối năm 2008, nhưng thật ra đã được ký tắt với Trung Quốc cách đây nhiều năm mà không hề được thông qua ở Quốc hội.

Thứ hai, Trung Quốc đóng cửa các mỏ bauxit trong nước để chuyển sang khai thác ở Việt Nam, đem theo gánh nặng môi trường cho các thế hệ hôm nay và mai sau ở Việt Nam, như họ đã làm ở châu Phi với sự giúp đỡ của những chế độ cai trị tham nhũng tại đây.

Thứ ba, Trung Quốc không chỉ đem theo kỹ thuật, công nghệ, mà còn đưa nhân công vào Việt Nam.

Những người ký tên vào bản kiến nghị khẳng định rằng đất nước là của chung của cả dân tộc, chứ không là của riêng của một nhóm người nào, cho nên, họ đề nghị phải đưa vấn đề dự án bauxit Tây Nguyên ra trước Quốc hội và phải dừng ngay dự án này với sự giám sát chặt chẽ, cho tới khi nào Quốc hội xem xét toàn bộ báo cáo tiền khả thi và phê chuẩn. Các tác giả bản kiến nghị còn đòi là những nghiên cứu tiền khả thi về bauxit Tây Nguyên phải được dư luận rộng rãi tham gia và theo dõi.

Sau khi ba ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế Hùng và Phạm Toàn nộp bản kiến nghị cho Quốc hội, họ tiếp tục thu thập chữ ký và chỉ vài ngày sau số người tham gia ký tên đã lên tới hơn 1.100.

Đến mức mà nhóm soạn thảo kiến nghị đã phải lập ra một blog riêng mang tên Bauxite Việt Nam ở điạ chỉ : http://vn.myblog.yahoo.com/huechivn2009 để có thể nhận thêm chữ ký. Nhưng chỉ sau vài ngày, do số người truy cập quá đông, nhóm đề xuất kiến nghị đã phải chuyển blog này thành website, http://bauxitevietnam.info/.

Một kết quả thật không ngờ, như ông Hà Si Phu đã viết trong bài phổ biến trên mạng, tựa đề '' Thấp thoáng Diên Hồng'': '' Con số một ngàn chưa có ý nghĩa gì về số lượng, nhưng là dấu hiệu chuyển biến về chất, từ vô cảm đến trách nhiệm, từ ly tán đến hợp quần, từ lo sợ kinh niên sang một xã hội dân sự tự tin, vô úy''.

Thật vậy, có lẽ đây là lần đầu tiên ở Việt Nam mà giới trí thức văn nghệ sĩ góp chung tiếng nói một cách mạnh mẽ như thế để bày tỏ thái độ bất đồng với cách hành xử của chính quyền. Cho tới nay, nói chung các nhà trí thức, văn nghệ sĩ thường chỉ lên tiếng lẻ tẻ, hoặc không dám lên tiếng vị sợ đụng chạm.

Nhà văn Xuân Đức, trong bức thư gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 4/3 nói về dự án bauxit, viết rằng : '' Khi chúng tôi bày tỏ suy nghĩ của mình đến một vấn đề hệ trọng của đất nước mà không thuận chiều với ý chỉ đạo của trên thì thường chúng tôi chỉ nhận được lời khuyên có tính chất răn đe.''


Giáo sư Nguyễn Huệ Chi

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi

Hiện giờ, những áp lực từ dư luận có lẽ đã phần nào có tác động lên giới lãnh đạo Việt Nam, vì Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam tuy vẫn xem khai thác bauxit là chủ trương nhất quán của Đảng, nhưng đã ra lệnh rà soát lại dự án bauxit Nhân Cơ, một trong hai dự án đầu tiên hiện đang được triển khai. Nhất là đánh giá về hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, cũng như phải quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên.

Tuy nhiên, để đối phó với phản ứng bất bình ngày càng lan rộng, Bộ Chính trị cũng đã yêu cầu Ban tuyên giáo trung ương chỉ đạo công tác tuyên truyền phổ biến kết luận nói trên để gọi là tạo sự '' thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội''.

Nói cách khác, những ý kiến đi ngược lại quyết định của Bộ Chính trị rất có thể sẽ không còn xuất hiện trên các trang báo chính thức.

26/4/09

Bổ nhiệm chủ tịch huyện cho quần đảo Hoàng Sa

Bài đăng ngày 25/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày 25/04/2009 13:31 TU

Quần đảo Hoàng Sa

Quần đảo Hoàng Sa

Ngày 25.04.09, Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng chính thức bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ, Giám đốc Sở Nội vụ làm chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa, một quần đảo mà Trung Quốc đã chiếm giữ từ năm 1974 sau một trận hải chiến với Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

Cho tới nay, mỗi khi Trung Quốc có những hành động xâm phạm chủ quyền ở biển Đông, hầu như chỉ duy nhất có phát ngôn viên Bộ Ngoại giao lên tiếng phản đối. Việc bổ nhiệm chức vụ chủ tịch huyện đảo dường như là bước cụ thể đầu tiên để Việt Nam khẳng định trở lại chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, sau nhiều năm vấn đề này vẫn là chủ đề cấm kỵ trên báo chí.

Thật ra thì chức chủ tịch huyện đảo chỉ là trên giấy tờ vì Hoàng Sa đang nằm trong tay Trung Quốc. Trụ sở của chính quyền huyện Hoàng Sa hiện vẫn phải đặt tại Sở Nội Vụ Đà Nẵng.

Trước mắt, theo lời tân chủ tịch huyện Đặng Công Ngữ, công việc của họ chủ yếu là tuyên truyền, giáo dục để mọi người dân hiểu biết thêm về Hoàng Sa, khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Để làm được việc này, chính quyền Hoàng Sa sẽ thu thập các thông tin, tư liệu làm bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.

Cũng theo chiều hướng đó, chính quyền Đà Nẵng đã đặt cho nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương viết một cuốn sách về Hoàng Sa. Theo tờ Tuổi Trẻ, cuốn sách mang tên ''Quần đảo Hoàng Sa không thể nhượng quyền của Việt Nam'' dự kiến được xuất bản vào tháng tới.

Thật ra, ông Nguyễn Phước Tương, đã ấp ủ ý định viết cuốn sách này từ lâu và từ 10 năm qua ông đã miệt mài thu thập khoảng 150 tài liệu chứng minh Hoàng Sa là của Việt Nam từ thời chúa Nguyễn. Nhưng nay, cuốn sách này mới có dịp ra mắt công chúng.

Về cấp độ quốc gia, Bộ ngoại giao Việt Nam gần đây đã làm lễ tiếp nhận tờ lệnh quý về Hoàng Sa mà tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã nối tiếp nhau gìn giữ từ suốt 175 năm qua.

Bên cạnh đó, có một sự kiện đáng chú ý đó là ngày 22/4 vừa qua, lần đầu tiên, một phái đoàn của quân đội Việt Nam đã lên tham quan một hàng không mẫu hạm của Mỹ, đó là chiếc USS John C. Stennis, đậu trên biển Đông.

Hãng tin Reuters trích lời một phát ngôn viên Đại sứ quán Mỹ cho biết là phía Việt Nam đã xin tham quan hàng không mẫu hạng Mỹ từ lâu và chuyến tham quan này đã được sắp xếp từ nhiều tháng trước. Nhưng có có lẽ do trùng hợp về thời điểm, chuyến tham quan diễn ra ngay đúng vào lúc Trung Quốc đang chuẩn bị biểu dương lực lượng nhân kỷ niệm 60 năm thành lập binh chủng Hải quân.

Nhưng có điều, chính quyền Hà Nội hiện vẫn còn rất e dè trước láng giềng phương Bắc và vẫn không ngần ngại dập tắt những tiếng nói từ người dân phản đối Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền. Bằng chứng là Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam gần đây ra ra lệnh đình bản tờ Du Lịch trong ba tháng, vì tờ báo này bị coi là đã có ''sai phạm nghiêm trọng'' về luật Báo chí. Các lãnh đạo của báo Du Lịch bị coi là ''đã không chấp hành sự chỉ đạo đối với các thông tin quan trọng, phức tạp và nhạy cảm''.

Lý do là vì trong số báo Tết Kỷ Sửu 2009, tuần báo của Tổng cục Du Lịch đã đăng các bài viết ủng hộ những người đã xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội và Sài Gòn vào cuối năm 2007 đầu năm 2008.

Phản ứng về quyết định đình bản, Phó tổng biên tập báo Du Lịch, ông Nguyễn Trung Dân đã khẳng định là tờ báo của ông không hề có sai phạm. Theo ông, động viên lòng yêu nước của người dân là việc rất đáng làm. Đọc qua báo chí Việt Nam hiện nay, hầu như chỉ còn có tờ báo điện tử VietnamNet là còn mạnh dạn đăng những bài báo bàn về tranh chấp chủ quyền biển Đông. Nhưng nhiều người sợ rằng sự tự do này sẽ không kéo dài.

Phải chăng cũng vì ngán ngại Trung Quốc mà chính quyền Việt Nam vẫn chưa đăng ký thềm lục địa mở rộng cho Liên hiệp quốc, trong khi ngày 13/5 tới đây là hạn chót để làm việc này?

Nhiều người trong giới luật gia đã liên tục cảnh báo về nguy cơ mất chủ quyền biển Đông nếu Việt Nam không đăng ký kịp thời hạn, trong bối cảnh mà Trung Quốc đã có chủ trương và hành động cụ thể để chiếm 75 % diện tích biển Đông, xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

21/4/09

Trung Quốc biểu dương lực lượng nhân kỷ niệm 60 năm thành lập Hải quân

Bài đăng ngày 20/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày 20/04/2009 12:43 TU
Tàu chiến Trung Quốc ngoài khơi Thanh Đảo tham dự lễ kỷ niệm 60 thành lập Hải quân(Ảnh : Reuters)

Tàu chiến Trung Quốc ngoài khơi Thanh Đảo tham dự lễ kỷ niệm 60 thành lập Hải quân
(Ảnh : Reuters)

Trong suốt bốn ngày kể từ hôm nay, ở ngoài khơi bờ biển thành phố Thanh Đảo, Hải quân Trung Quốc tổ chức một loạt các hoạt động kỷ niệm 60 thành lập binh chủng này.

Nhân dịp này, Bắc Kinh đã mời đoàn đại biểu hải quân của 29 nước và 21 chiến hạm các loại của 14 quốc gia. Trong số các đại diện ngoại quốc, có tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ, đô đốc Gary Roughead và trong số các chiến hạm được mời đến có cả chiến hạm USS Fitzgerald của Mỹ.

Theo Tân Hoa Xã, các hoạt động kỷ niệm nói trên có chủ đề là '' Hải dương hài hòa'' nhằm gọi là ''tăng cường hợp tác an ninh trên biển, cùng kiến tạo môi trường biển hài hòa''. Nhưng rõ ràng đây sẽ là dịp để Trung Quốc phô trương lực lượng của Hải quân.

Hải quân Trung Quốc được thành lập ngày 23 tháng 4 năm 1949, tức là nhiều tháng trước khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chính thức ra đời. Ban đầu, lực lượng Hải quân này chỉ có trong tay 19 chiến hạm và 17 tàu khác, tịch thu được khi một đơn vị thuộc hạm đội của Quốc dân Đảng chạy sang đầu quân cho phe Cộng sản.

Sáu mươi năm sau, Hải quân Trung Quốc dĩ nhiên là lớn mạnh hơn nhiều. Không những thế, trong bài phỏng vấn đăng trên tờ nhật báo Anh ngữ China Daily số ra ngày 16/04 vừa qua, Tư lệnh Hải quân Trung Quốc cho biết là Bắc Kinh sẽ phát triển một thế hệ chiến hạm và phi cơ mới để binh chủng này có một tầm hoạt động rộng hơn.

Cụ thể, Hải quân Trung Quốc sẽ phát triển các chiến hạm lớn hơn, các tàu ngầm có khả năng đi xa hơn và các phi cơ siêu âm. Ngoài ra, Trung Quốc còn nhắm đến việc phát triển các tên lửa tầm xa chính xác hơn, các ngư lôi bắn sâu dưới biển và nâng cấp toàn diện công nghệ thông tin cho Hải quân.

Vào tháng trước, Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt cũng đã tuyên bố rằng Trung Quốc không muốn cứ vẫn là cường quốc duy nhất không có hàng không mẫu hạm, gián tiếp xác nhận là Bắc Kinh sẽ xây một hàng không mẫu hạm.

Sự tăng cường lực lượng Hải quân Trung Quốc không khỏi gây lo ngại cho các nước châu Á và Hoa Kỳ. Trong một báo cáo công bố vào tháng trước, Lầu Năm Góc đã nhấn mạnh là việc quân đội Trung Quốc tiếp tục trang bị các vũ khí tối tân đang làm thay đổi cán cân quân sự ở châu Á.

Ngoài Đài Loan, mục tiêu có tính chất truyền thống, việc hiện đại hóa quân sự này còn nhằm nâng cao khả năng tác chiến của quân đội Trung Quốc ở vùng biển Đông, nơi mà Bắc Kinh đang tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Trường Sa- Hoàng Sa với Việt Nam và các nước khác trong khu vực.

Trong bản báo cáo này, Lầu năm góc lần đầu tiên đã xác nhận là Trung Quốc đã xây một căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam, để phục vụ cho đội tàu ngầm ngày càng đông, trong đó có cả những tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo.

Nói chung, những kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc hoàn toàn vượt quá giới hạn của mục tiêu gọi là ''phòng thủ bảo vệ lãnh hải và phát triển kinh tế''. Chính vì vậy mà Hoa Kỳ gần đây đã tăng cường giám sát, bằng cách gởi thêm các tàu do thám đến vùng biển Đông.

18/4/09

Trung Quốc gia tăng sự hiện diện kinh tế ở các nước ASEAN

Trung Quốc gia tăng sự hiện diện kinh tế ở các nước ASEAN

Không chỉ gia tăng sức mạnh quân sự, Trung Quốc cũng đang đẩy mạnh sự hiện diện kinh tế ở khu vực Đông Nam Á. Bắc Kinh đã hy vọng ký kết một hiệp định tự do mậu dịch vớI ASEAN nhân cuộc họp thượng đỉnh tại Pattaya vào cuối tuần trước. Hiệp định này nếu được ký kết sẽ tạo thành một vùng tự do mậu dịch lớn nhất thế giới. Nhưng do tình hình bạo động, cuộc họp giữa các lãnh đạo Trung Quốc và Đông Nam Á đã bị dờI lại.

Trước mắt, nhân Diễn đàn Bác Ngao khai mạc 18/04/09, thủ tướng Ôn Gia Bảo loan báo là Trung Quốc sẽ lập một quỹ 10 tỷ đôla để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước Đông Nam Á. Bắc Kinh thừa biết rằng, ngoại trừ Singapore, toàn bộ các nước ASEAN đều rất cần nguồn tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Cho tới nay, một số dự án này là do Ngân hàng phát triển châu Á tài trợ, nhưng Ngân hàng này nằm trong vòng ảnh hưởng của Nhật. Nay Trung Quốc muốn lập một cơ chế tài trợ khác mà trong đó Bắc Kinh nắm vai trò chủ động. Thông qua số tiền 10 tỷ đôla nói trên, Trung Quốc sẽ thắt chặt hơn nữa quan hệ kinh tế với các nước Đông Nam Á. Không những thế, Bắc Kinh còn đề nghị một khoản tín dụng 15 tỷ đôla cho các nước ASEAN, trong đó bao gồm cả những khoản vay với lãi suất ưu đãi dành cho các dự án hợp tác. Ấy là chưa kể những kế hoạch tổng cộng gần 40 triệu đôla để giúp Cam Bốt, Lào, Miến Điện, ba nước bị tác động nặng nề nhất bởi tình trạng suy giảm kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, Bắc Kinh còn loan báo sẽ bơm thêm 5 tỷ đôla cho Quỹ hợp tác Trung Quốc-ASEAN.

Rõ ràng là Trung Quốc đang nỗ lực tranh giành ảnh hưởng vớI Nhật Bản tại vùng Đông Nam Á, một thị trường với hơn 500 triệu dân. Theo lời một giáo sư của Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc trường Đại học Hạ Môn, hiện giờ, ảnh hưởng của Nhật Bản vẫn còn rất lớn ở Đông Nam Á. Nhật Bản vẫn là đối tác thương mại hàng đầu của các nước ASEAN và vẫn là quốc gia viện trợ nhiều nhất cho vùng này. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới vào tháng giêng năm nay, thủ tướng Taro Aso đã loan báo khoản viện trợ 15 tỷ đôla cho châu Á. Nhân hội nghị nhóm G20 tại Luân Đôn vừa qua, thủ tướng Taro Aso đã hứa sẽ bỏ ra thêm khoảng 5 tỷ đôla để hỗ trợ các nước đang phát triển trong khu vực châu Á chống đở với khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Cuộc tranh giành ảnh hưởng Trung- Nhật dĩ nhiên là có lợi cho các nước ASEAN, vì như vậy khối này có thể tranh thủ các nguồn tài trợ của hai cường quốc châu Á. Nhưng cũng cần phải thấy rằng việc Bắc Kinh gia tăng ảnh hưởng kinh tế và sức mạnh quân sự cũng chính là nhằm tích tụ thêm nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sự phát triển nhanh chóng của quốc gia hơn một tỷ dân này. Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào Miến Điện, một nước có các tài nguyên rất dồi dào và dần dần Bắc Kinh đã trở thành một trong những đồng minh thân cận nhất của chế độ quân phiệt và nguồn cung cấp vũ khí chủ yếu cho nước này. Việc Trung Quốc đầu tư vào các dự án bauxit Tây Nguyên cũng là theo chiều hướng đó. Nhưng những dự án này đang bị dư luận Việt Nam phản đối vì nó gây tác hại không chỉ về mặt môi trường mà còn gây lo ngại về mặt an ninh quốc phòng. Tranh thủ sự hỗ trợ của láng giềng phương Bắc, nhưng phải làm sao bảo toàn được chủ quyền quốc gia, đó là thách đố đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay.

Dự án bauxit Tây Nguyên: Làn sóng phản đối ngày càng mạnh

Kể từ khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng loan báo quyết định của chính phủ nhất quyết tiến hành dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên bất chấp những cảnh báo của các nhà khoa học về tác hại đối với môi trường và văn hóa ở vùng này, làn sóng phản đối dự án này ngày càng mạnh, nhất là vì nhiều người sợ rằng Trung Quốc trong tương lai sẽ kiểm soát vùng Tây Nguyên, đe doạ đến an ninh quốc phòng của Việt Nam.


Trong một bài báo đăng trên mạng ngày 28/3, tờ Tuổi Trẻ khi tường thuật về buổi tọa đàm về các biện pháp kích cầu trong xây dựng đã trích lời ông Trần Ngọc Hùng - chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN - khẳng định các nhà thầu VN đang rất lo vì thực tế cho thấy các dự án lớn khi đem ra đấu thầu hầu như đều rơi vào tay các nhà thầu nước ngoài và nhất là các nhà thầu Trung Quốc đang thắng thầu rất nhiều công trình trọng điểm về điện, ximăng, hóa chất... Ông Hùng nói: "Đáng quan tâm là các nhà thầu Trung Quốc thường đem theo hàng ngàn công nhân và đem cả thiết bị của họ sang, trong khi những thiết bị đó VN hoàn toàn có thể sản xuất được". Qua bài báo này, tờ Tuổi Trẻ tiết lộ là hàng chục ngàn công nhân Trung Quốc đã vào Việt Nam.

Trong số này có bao nhiêu công nhân Trung Quốc là việc cho dự án khai thác bauxit, hiện chưa có con số chính xác, nhưng có lẻ là rất đông, theo như quan sát của người dân địa phương tại Tây Nguyên. Một điều chắc chắn là các dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên đang được tiến hành rất khẩn trương.

Bằng chứng là gần đây hãng tin Dow Jones có loan tin là Tập đoàn Marubeni của Nhật vừa cho biết rằng họ và công ty China Aluminum International Engineering Co. (Trung Quốc), đã nhận được đơn đặt hàng để bán một nhà máy luyện nhôm sẽ được sử dụng ở Đắk Nông. Theo dự kiến, việc xây dựng nhà máy sẽ hoàn tất vào năm 2011 và khi vận hành sẽ đạt công suất 600,000 tấn alumima/năm.

Cũng hãng thông tấn Dow Jones cho biết, đây là đơn đặt hàng cho nhà máy luyện nhôm thứ nhì tại Việt Nam. Trước đây, đã có một hợp đồng được TKV (Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam) ký với Marubeni, trị giá 50 tỉ Yen (khoảng 52 triệu USD), để mua một nhà máy luyện nhôm đặt tại phía Bắc Sài Gòn.

Trong một bản tin đăng ngày 6/3, tờ Sài Gòn Tiếp Thị cho biết, công ty Alumin Nhân Cơ, thuộc TKV đã hoàn tất việc san ủi 200 héc ta đất để chuẩn bị xây dựng một nhà máy luyện oxid nhôm tại xã Nhân Cơ, huyện Đắk Rlấp, tỉnh Đắk Nông. Theo tờ Sài Gòn Tiếp Thị, "các hạng mục phụ trợ khác như văn phòng, đường dẫn vào nhà máy..., đã hoàn thành". Cũng theo Sài Gòn Tiếp Thị, "nhà máy luyện oxid nhôm vừa kể có công suất 600,000 tấn/năm và đại diện TKV, đại diện công ty Alumin Nhân Cơ đã lên đường sang Trung Quốc để ký hợp đồng xây dựng nhà máy với công ty cổ phần nhôm Trung Quốc (Challico). Nhà máy này theo dự kiến sẽ được khởi công xây dựng đầu quý 2 năm nay".

Trước tình hình đó, ngày càng có nhiều nhà trí thức lên tiếng phản đối dự án bauxit Tây Nguyên vì tác hại kinh khủng của nó đến môi trường. Gần đây nhất, nhà báo Lê Phú Khải từ Sài Gòn, với tư cách một đảng viên, đã viết thư đề ngày 18/3 gởi cho tổng bí thư Nông Đức Mạnh, trong đó có đoạn viết rằng:

‘’Vấn đề bauxite còn nguy hại gấp trăm ngàn lần cải cách ruộng đất, vì nó hủy diệt cả dân tộc ta như các nhà khoa học đã dự báo.Mười năm nữa sông Đồng Nai và những con sông khởi nguồn từ Tây Nguyên bị nhiễm bùn đỏ thì cả miền Trung, Đông Nam Bộ và TP.HCM lấy gì mà uống, những bà mẹ sẽ đẻ ra toàn quái thai. Vì sự tàn khốc đó mà Trung Quốc đã đóng cửa các mỏ bauxite của họ trên toàn quốc vào năm 2008.

Chính vì lẽ đó, với tư cách một công dân, một nhà báo lâu năm, tôi kiến nghị lên Ông Tổng Bí thư, người có trách nhiệm cao nhất của Đảng cầm quyền: Hãy đưa vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên ra bàn ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Nhà nước để dừng lại dự án này khi chưa quá muộn.’’


Nhưng chính là sự hiện diện đông đảo của người Trung Quốc ở Tây Nguyên đang gây lo ngại ngày càng nhiều về mặt an ninh quốc phòng. Trong một bức thư đề ngày 2/3 năm 2009 gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng ghi nhận là:

''Qua những vụ việc đất đai ở biên cương phía bắc, có thể dễ dàng nhận ra bài bản cướp đất của phương Bắc là: Lặng lẽ chiếm đất ở từng điểm nhỏ lẻ, rải rác, coi như đó chỉ là những vụ việc cục bộ, địa phương, nhà nước trung ương không hay biết! Nhà nước trung ương cứ cao giọng nói hữu hảo, cứ ban phát lời vàng hữu nghị nhưng cục bộ cứ lấn đất, chiếm đất, lặng lẽ mà chiếm, không gây ồn ào thành sự kiện quốc gia là được! Cả hệ thống truyền thông khổng lồ của ta cũng làm ngơ đồng lõa!''

Từ đó, nhà văn Phạm Đình Trọng càng đặt nghi vấn về quyết định của chính phủ cho phép Trung Quốc khai thác bauxít ở Tây Nguyên :

''Lạ quá, qui hoạch khai thác bô xít ở Tây Nguyên mới được Chính phủ phê duyệt, luận chứng kinh tế kĩ thuật đang soạn thảo, các nhà khoa học còn đang tranh luận nên hay không nên khai thác bô xít ở Tây Nguyên, thế mà công dân Trung Hoa, người cầm bản đồ, người mang cưa máy, người cuốc, người xẻng đã xục xạo ở Tây Nguyên!

Dư luận người dân Việt Nam đang lo ngại, đang xôn xao bàn tán về tính hiệu quả, về thảm hoạ môi trường khi khai thác bô xít Tây Nguyên và càng lo ngại hơn khi hàng ngàn trai tráng Trung Hoa sẽ có mặt đông đảo, trùng trùng đội ngũ ở Tây Nguyên, trung tâm bán đảo Đông Dương, khi đó ông Thủ tướng mới tuyên bố rằng khai thác bô xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà nước! Chủ trương lớn của đảng và nhà nước mà Quốc hội của dân chưa được bàn định thì người Trung Hoa đã xắn tay áo thực hiện chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta rồi! Điều này làm cho người dân phải đặt câu hỏi: Chủ trương lớn khai thác bô xít Tây Nguyên có thực sự vì đất nước Việt Nam, có thực sự vì nhân dân Việt Nam?''


Trước đó, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh cũng đã viết thư khuyên can thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và cảnh báo rằng :

''Chúng ta đều biết Trung Quốc xây dựng căn cứ hải quân hùng mạnh ở Tam Á đảo Hải Nam, nói thẳng ra là không phải để chống kẻ thù xâm lược nào, mà là đe doa Việt Nam và sẵn sàng chờ thời cơ thôn tính nốt Trường Sa của chúng ta, sau khi đã nhanh tay chiếm Hoàng Sa từ tay Chính quyền Sài Gòn. Nay lại để Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên thì sẽ có năm, bảy nghìn hoặc một vạn công nhân hay quân nhân Trung Quốc đến cư trú và hoạt động tại đây, sẽ hình thành một "thị trấn Trung Hoa", một "căn cứ quân sự" trên địa bàn chiến lược vô cùng xung yếu của chúng ta (vũ khí đưa vào thì không khó gì). Phía Bắc nước ta, trên biển có căn cứ hải quân hùng mạnh, phía Tây Nam nước ta có căn cứ lục quân trang bị đầy đủ thì độc lập, chủ quyền mà chúng ta đã phải đổi bằng hàng triệu sinh mạng cùng xương máu sẽ như thế nào ?!''

Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 6/4 vừa qua, nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt cũng chia sẻ những mối lo âu nói trên.

RFI: Kính thưa ông Bùi Minh Quốc, là một người sống ở Đà Lạt, cách không xa các mỏ bauxit, ông có suy nghĩ như thế nào về dự án khai thác bauxit Tây Nguyên?

Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Từ lâu tôi đã để ý đến dự án khai thác bauxit Tây Nguyên, mà cụ thể là trên đất Lâm Đồng, tức là điạ bàn huyện Bảo Lộc, cách Đà Lạt hơn 120 km. Những người từ Bảo Lộc về cho biết là từ nhiều tháng qua, người dân tại đây đã xầm xì bàn tán về việc Trung Quốc vào khai thác bauxit ở Tây Nguyên. Dư luận lại càng bàn tán nhiều hơn kể từ khi có ý kiến của đại tướng Võ Nguyên Giáp gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, rồi đến thư của thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, rồi ý kiến của các nhà khoa học, nhà trí thức như tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, giáo sư Phạm Duy Hiễn hay nhà văn Nguyên Ngọc.

Dự án này tàn phá môi trường không chỉ của Tây Nguyên, mà còn của những vùng bên dưới nữa. Vì đây là thượng nguồn sông Đồng Nai, cho nên nó ảnh hưởng đến toàn bộ vùng Đông Nam bộ và Sài Gòn. Rừng bị phá, tức là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên bị phá, vì như nhà văn Nguyên Ngọc có nói, văn hóa Tây Nguyên trước hết là văn hóa rừng.

Ý kiến của riêng tôi là dự án khai thác bauxit Tây Nguyên đã là một sai lầm, sai lầm này càng lớn hơn nữa vì đối tác được chọn lại là Trung Quốc, như tôi đã nhấn mạnh trong bài viết ''Chống diễn biến hòa bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc''

RFI: Xin ông giải thích rõ hơn về khái niệm này? Nguy cơ của dự án khai thác bauxit Tây Nguyên đối với an ninh quốc phòng của Việt Nam là như thế nào?

Bùi Minh Quốc: Đây là hình thức diễn biến hòa bình thông qua quan hệ giữa hai đảng. Bauxit Tây Nguyên chính là bằng chứng cho thấy tính chất nguy hiểm đối với an ninh quốc gia, như thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã nêu lên. Ở phía Đông Bắc, Trung Quốc xây một căn cứ hải quân rất mạnh ở đảo Hải Nam. Căn cứ này không phải để nhằm chống một cuộc xâm lăng nào, mà là chính là để đe doạ Việt Nam.

Bây giờ, họ thông qua việc hợp tác khai thác bauxit để đưa người vào Tây Nguyên. Theo những tin tức từ địa phương mà tôi nắm được, tại khu Bảo Lâm, người Trung Quốc đã vào đầy ở đó, đã xây nhà, xây cửa thành những khu vực riêng, đã tiến hành ũi đất khai thác. Đứng về mặt an ninh quốc phòng, thì từ Bảo Lâm đến Sài Gòn chỉ cách 180 km, mà theo đường chim bay thì còn ngắn hơn nữa. Những người Trung Quốc được đưa vào Tây Nguyên, nhìn bề ngoài là công nhân, nhưng bên trong họ là lính tráng thì sao ? Như ông Nguyễn Trọng Vĩnh có nói, họ đưa súng ống vào đâu có gì là khó ?

Nói chung, đây là một vấn đề chính trị rất phức tạp, rất nghiêm trọng, với nguy cơ mất nước đang hiện ra. Nước ta coi như đang bị một gọng kìm. Phía Đông Bắc là căn cứ hải quân, phía Tây Nguyên thì đang hình thành một địa bàn quân sự trá hình. Tôi hết sức lo lắng, nhất là vì cả đời tôi đã tham gia cứu quốc, nay lại thấy đất nước đùng trước một nguy cơ như thế, thì làm sao mà yên lòng được ?

Trao đổi với những bạn bè gần xa, tôi thấy ai cũng đều có tâm trạng như vậy, tức là hết sức lo lắng, bất bình và đều rất mong là những nhà lãnh đạo cho dừng ngay dự án này. Việc này theo lẽ phải được đưa ra cho toàn dân bàn, theo đúng chủ trương của Đảng là ''dân biết, dân bàn''. Hơn nữa, về mức số vốn đầu tư thì đây là dự án lớn nhất từ trước đến nay ở Việt Nam, mà lại liên quan đến an ninh quốc phòng. Thế mà, người dân đã bị đặt trước việc đã rồi. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, một người trong cuộc, thuộc Tập đoàn Than và Khoáng sản, một người biết rõ vấn đề từ rất lâu, đã nói thẳng ra rằng đây là một sai lầm cố ý của Tập đoàn Than Khoáng sản.

Có những dấu hiệu cho thấy là những người lãnh đạo cao nhất của đất nước này đang có một cái mắc míu, cái vướng víu gì đó, cho nên mới lệ thuộc vào Trung Quốc như thế, rồi cứ ngấm ngầm cho làm, bây giờ mới bùng ra là người Trung Quốc đã vào đầy ở Tây Nguyên rồi. Động thái của họ thật là khó hiểu.

RFI: Theo ông biết thì những ý kiến phản bác dự án bauxit nay còn được loan tải rộng rãi trên báo chí chính thức không?

Bùi Minh Quốc: Nói chung những ý kiến trên mặt báo chính thức là không phản ánh được tâm trạng của nhân dân và của đảng viên. Đảng đã có chủ trương ''dân biết, dân bàn'', nhưng biết và bàn ở đâu bây giờ? Báo chí Việt Nam rõ ràng là không thể hiện được'' dân biết, dân bàn'', nhất là đối với dự án khai thác bauxit Tây Nguyên này.

Theo tôi việc cần làm trước hết là phải thông tin cho nhau, đặc biệt là phổ biến thật rộng rãi những bức thư của tướng Giáp, tướng Vĩnh, tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, nhà văn Nguyên Ngọc, v.v... Những ý kiến ấy rất có cơ sở, rất có tính thuyết phục để phản bác chủ trương khai thác bauxit ở Tây Nguyên. Những ai chưa hiểu rõ vấn đề khi đọc qua những bức thư ấy thì sẽ hiểu rõ ngay. Từ đó, mọi người có thể cùng lên tiếng.

RFI: Gần đây, Hoà thượng Thích Quảng Độ, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, có kêu gọi ''biểu tình tại gia'' để phản đối dự án bauxit. Ông có ý kiến gì về lời kêu gọi này?

Bùi Minh Quốc: Tôi thấy ý kiến của Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng rất hay, nhưng còn tính khả thi của nó đến đâu thì ta sẽ xem. Tôi nghĩ là bằng cách này hay cách khác, mỗi người tùy hoàn cảnh, vị trí của mình, nên bày tỏ thái độ cá nhân cũng như thái độ tập thể.

RFI: Xin cám ơn nhà thơ Bùi Minh Quốc.

Dự luật về quyền tiếp cận thông tin, bước đầu để luật hóa quyền tự do báo chí

Bài đăng ngày 13/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày 13/04/2009 13:17 TU

Hiến pháp 1992 của Việt Nam có ghi rõ là người dân được bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin. Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng thường hay nhắc đến chủ trương gọi là ''dân biết, dân bàn, dân kiểm tra''.

Nhưng trên thực tế, những quyền nói trên, đặc biệt là quyền được tiếp cận thông tin, hầu như không bao giờ được tôn trọng. Trong khi đó, ai cũng thấy rõ là việc bưng bít thông tin là một trong những nguyên nhân chính của nạn lạm quyền, tham nhũng ở Việt Nam.

Nay, quyền tiếp cận thông tin của người dân sẽ được luật hóa trong một dự luật hiện đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo và theo dự kiến sẽ được trình lên Quốc hội vào cuối năm nay và sẽ được thông qua vào năm tới.

Hiện nay, dự luật này đang trong giai đoạn thảo luận giữa các đại diện chính quyền với nhà chuyên môn. Việc soạn thảo Luật tiếp cận thông tin cũng được sự hỗ trợ của quốc tế, nhất là của Na Uy.

Thật ra, Việt Nam đã buộc phải soạn thảo dự luật về tự do thông tin chính là do áp lực từ các điều ước, điều khoản quốc tế mà Hà Nội đã ký kết. Những hiệp ước này đòi hỏi Việt Nam phải có sự minh bạch thông tin, nhất là trong hoạt động tài chính. Có thể nói đây là lần đầu tiên mà ở Việt Nam có một luật về các quyền được hiến định. Nói cách khác, đây chính là bước đầu để luật hóa quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

Trong một bài viết đề ngày 17/3 đăng trên trang Web của tờ Tia Sáng, giáo sư Phạm Duy Nghĩa cho rằng, '' một bộ luật bảo đảm cho quyền tự do thông tin của người dân nếu được ban hành sẽ giúp báo giới tự tin hơn khi khai thác quyền được thông tin, quyền được nói của người dân. Có biết, có dám tranh luận, rồi một ngày người dân mới học cách tập hợp lực lượng để phản biện lại các chính sách của chính quyền khi cần thiết. »

Nhưng quyền tiếp cận thông tin cũng gắn chặt với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, bởi vì chính báo chí là kênh thông tin chủ yếu đến người dân. Cho tới nay, ở Việt Nam, việc tiếp cận thông tin của phóng viên cũng rất khó khăn, nhất là những thông tin bị coi là nhạy cảm. Ấy là chưa kể việc nhiều cơ quan Nhà nước vì sợ báo chí khai thác thông tin nên đóng dấu mật vô tội vạ trên các tài liệu, các văn bản.

Về mối tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin với Luật báo chí, giáo sư Phạm Duy Nghĩa nhận định là « dựa trên luật về tự do thông tin, báo chí từ vị trí thụ động, phát ngôn cho các cơ quan Đảng và cơ quan hành chính, sẽ chuyển sang vị thế chủ động hơn, truy đuổi các thông tin mà theo lẽ cơ quan Nhà nước phải công bố ».

Nói cách khác, theo giáo sư Nghĩa, ''ban hành luật về tự do thông tin sẽ là một cú hích để tu chỉnh luật báo chí Việt Nam''. Nhưng, theo ông, nếu như luật về tự do thông tin được ví như một bầu nước, thì Pháp luật về bí mật Nhà nước năm 2000 lại chính là cái nút thắt chặt lấy bầu nước ấy.

Giáo sư Nghĩa nhắc lại những vụ đáng phải thảo luận thêm vụ phóng viên Lan Anh của tờ Tuổi Trẻ trước đây đã bị khởi tố liên quan đến một tài liệu được coi là bí mật của Bộ Y tế.

Cũng theo giáo sư Phạm Duy Nghĩa, ''nếu đưa tin về vụ khai thác bauxit Tây Nguyên, báo chí có thể bị xem là vi phạm những thông tin được xem là tuyệt mật liên quan đến chủ trương của Đảng và Nhà nước về khai thác khoáng sản''. Cho nên, ông đề nghị là phải sửa đổi luôn Pháp lệnh về bí mật Nhà nước, nhất là phải xác định rõ nội dung nào được xem là bí mật.

Về điểm này, trong bài trả lời phỏng vấn với tờ báo điện tử VietnamNet ngày 24/2 vừa qua, Bí thư thứ nhất đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội, bà Snofrid Emterud, đã nhấn mạnh rằng : những quyết định liên quan đến đại cục chung không thể được coi là bí mật. Theo bà, mọi người phải được tạo cơ hội tìm hiểu và phản biện các quyết định chính trị.

Trong bài viết đăng trên tờ Lao Động cuối tuần ngày 8/2, tiến sĩ Nguyễn Quang A, đã viết : ''Nhà nước là “của dân, do dân và vì dân” nên công dân phải được thông tin trung thực kịp thời về hoạt động, chính sách, chủ trương của các cơ quan nhà nước, của các cơ quan “của mình”, “vì mình”. Đấy là quyền của công dân, họ có quyền đòi hỏi (chứ không phải xin) cơ quan nhà nước cung cấp thông tin và các cơ quan nhà nước phải có nghĩa vụ cung cấp (chứ không phải ban phát). Đấy là nguyên tắc''.

Trong số các đề nghị của tiến sĩ Nguyễn Quang A, có việc đề ra những thủ tục rõ ràng để ngặn chặn tình trạng các quan chức và cơ quan Nhà nước lạm dụng các lý do '' an ninh quốc gia'' hay ''bí mật quốc gia''

Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, " có quy định rõ ràng thì việc thực thi mới nghiêm túc và người dân mới có thể giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và quan chức nhà nước một cách hữu hiệu. Phải buộc các quan chức và viên chức nhà nước, cả ở trung ương lẫn địa phương, chỉ được làm những việc mà pháp luật cho phép, đồng thời giáo dục công dân rằng họ có quyền làm bất cứ thứ gì mà pháp luật không cấm ''.

14/4/09

Khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu khiến xuất khẩu Việt Nam giảm sút mạnh.

Bài đăng ngày 18/11/2008 Cập nhật lần cuối ngày 19/11/2008 15:15 TU

Cũng như những nước đang phát triển khác trên thế giới, Việt Nam không tránh khỏi tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, mà hiện đang đẩy nhiều cường quốc kinh tế vào suy thoái. Trong chuyên mục trên mạng của RFI Việt ngữ hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn với một trong những kinh tế gia hàng đầu của Việt Nam, tiến sĩ Lê Đăng Doanh:

RFI : Kính thưa tiến sĩ Lê Đăng Doanh, hiện nay nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển đang lần lượt đi vào suy thoái do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Điều này chắc chắn đang tác động đến các nước đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt là về mặt xuất khẩu. Xin ông trình bày cụ thể về tác động này ?

TS Lê Đăng Doanh : Nền kinh tế toàn cầu đang bị tác động nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính và các nền kinh tế phát triển đã lần lượt đi vào suy thoái. Hiện nay thì khối Liên minh châu Âu ( EU ) đã rơi vào suy thoái rồi . Chỉ có nước Pháp tuyên bố còn giữ mức tăng trưởng 0,14% ( trong quý ba 2008 ), chứ còn Đức thì đã rơi vào suy thoái, sau khi đã giảm hai quý liền. Tình hình này tác động đến Việt Nam rất là nhiều mặt, đặc biệt là xuất khẩu.

Việt Nam là một nước rất là mở về mặt thương mại, có nghĩa là hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam chiếm đến khoảng từ 65 đến 68% GDP và nhập khẩu trên dưới 80% GDP, tức là cộng lai, xuất nhập của Việt Nam chiếm 160 % GDP của mình. Xuất khẩu cũng tạo công ăn việc làm cho Việt Nam. Tác động đến xuất khẩu của Việt Nam là qua nhiều mặt. Một là số lượn đơn đặt hàng dệt may, da giày. Sức mua và nguồn nhập khẩu trên thị trường thế giới nay bị hạn chế rất nhiều. Từ quý ba trở đi và từ quý bốn này, số đơn đặt hàng về dệt may, về da giày, về đồ gỗ và ngay cả thủy sản cũng giảm.

Thứ hai là giá bị giảm sút rất rõ rệt, đặc biệt là dầu thô. Việt Nam là nước xuất khẩu dầu thô ở một mức độ khiêm tốn, nhưng nguồn thu từ dầu thô chiếm khoảng 22 đến 23% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và đóng góp một phần đáng kề vào nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam. Giá dầu thô đã giảm từ 147 đôla/thùng vào tháng bảy, nhưng bây giờ đã giảm xuống dưới 60 đôla, tức là giảm trên 100% và tác động rất mạnh đến nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam. Đó là những cái điều đáng phải chú ý.

RFI : Thưa ông , còn về tác động đối với đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam thì sao?

TS Lê Đăng Doanh : Việt Nam trông chờ rất nhiều vào giải ngân từ những cam kết rất lớn của vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cam kết và các nguồn vốn của những dự án đầu tư nước ngoài trong nước mà tăng vốn, cộng lại có lẽ là lên đến 61 tỷ đôla. Việc giải ngân những nguồn vốn đó đòi hỏi những nỗ lực rất lớn, nhưng trong điều kiện hiện nay, câu hỏi đặt ra là liệu những dự án đầu tư lớn đó hội được đủ vốn để giải ngân hay không ? Thường những dự án đầu tư nước ngoài không phải lúc nào họ cũng có sẳn vốn trong tay. Khi có một dự án hấp dẫn, họ sẽ lập ra một tổ hợp và sẽ thu hút vốn của các nhà đầu tư.

Câu hỏi lớn là liệu các nhà đầu tư có đủ thanh khoản để cung cấp cho các dự án đầu tư đó và giải ngân một cách kịp thời hay không. Vấn đề thứ ba là về các nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư tài chính, nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một số nhà đầu tư đã bán một phần vốn và rút vốn ra. Điểm cuối cùng là nguồn thu về du lịch đối với Việt Nam chắc chắn là sẽ bị ảnh hưởng. Nguồn kiều hối, mà năm ngoái đạt 6 tỷ đôla, năm nay dự kiến đạt 8 tỷ đôla, thì không biết là có đạt được hay không. Đấy là những vấn đề mà Việt Nam hiện đang cố gắng để giải quyết để bảo đảm công ăn việc làm, bảo đảm nguồn thu ngân sách và bảo đảm kế hoạch đầu tư và tăng trưởng.

RFI : Thưa ông, về lĩnh vực ngân hàng, thì tuy hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa có liên hệ nhiều đến thị trường thế giới, nhưng nó có bị tác động gián tiếp của khủng hoảng tài chính không ?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

TS Lê Đăng Doanh : Theo tôi không có một nước nào trên thế giới tự coi là miễn dịch với khủng hoảng tài chính, bởi vì tất cả đều bị tác động của việc xáo động tỷ giá. Giá đồng đô la và các đồng tiền khác giảm. Một số ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản, cho nên có tin là các ngân hàng Việt Nam đã phải rút vốn từ một số ngân hàng về nước. Nhưng rút số vốn đó về thì phải phải sử dụng nó như thế nào, chứ đừng để số vốn nằm chết. Đấy cũng là vấn đề mà Việt Nam đang phải giải quyết.

RFI : Thưa ông, khủng hoảng này chắc chắn sẽ còn kéo dài ít ra là vài năm nữa, vậy thì Việt Nam phải thi hành những biện pháp gì để hạn chế phần nào tác động của khủng hoảng ?

TS Lê Đăng Doanh : Việt Nam trước hết phải tiếp tục nỗ lực xuất khẩu, nhưng chỉ tiêu xuất khẩu cho năm 2009 là chỉ tăng có 13%, so với mức tăng xuất khẩu năm nay là khoảng 52%. Như vậy là Việt Nam đã có đánh giá hiện thực hơn rất nhiều. Thứ hai là Việt Nam phải kích động thị trường trong nước và tăng thêm sức mua của thị trường trong nước. Nhưng vấn đề ở đây là những người lao động làm việc cho các hãng xuất khẩu chắc chắn là sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn như các hãng lắp ráp xe hơi nay không bán được xe như trước trước nữa, cho nên họ đã bắt đầu giản thợ, bắt đầu một tuần chỉ làm một hoặc hai ngày. Đó là những vấn đề khó mà tránh khỏi. Vậy thì có có một vấn đề lớn đó là phúc lợi xã hội, tức là trợ cấp để giúp người lao động vượt qua những khó khăn này.

RFI : Với khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu kéo dài như vậy, chắc là Việt Nam sẽ khó mà trở lại mức tăng trưởng kinh tế 8 hay 9 % như những năm qua ?

TS Lê Đăng Doanh : Quốc hội Việt Nam đã chuẩn y mức tăng trưởng cho năm tới là 6,5%. Theo tôi đã là mục tiêu đã giảm nhiều và đã tính đến những yếu tố như tôi đã nói ở trên. Nhưng Việt Nam có thể tìm cách tận dụng các thị trường mà hiện nay ít bị tác động, như Trung Quốc, Ấn Độ ( những nước vẫn còn giữ được mức tăng trưởng nhất định ) , hoặc khu vực các quốc gia sản xuất dầu hỏa ( tuy giá dầu giảm sút nhưng họ vẫn có một nguồn ngoại tệ lớn ) hoặc những quốc gia có nguồn xuất tài nguyên rất lớn, thậm chí còn có thặng dư ngân sách như Úc.

Tôi nghĩ là Việt Nam có thể tận dụng những nền kinh tế đó để duy trì xuất khẩu ở mức độ có thể chấp nhận được. Nhưng về lâu về dài, Việt Nam phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, tức là tập trung vào phát triển công nghệ, tận dụng những công nghệ mới hơn, để tạo ra một giá trị gia tăng cao hơn, trên một đơn vị nguyên vật liệu và năng lượng. Ví dụ như hiện nay chúng ta xuất khẩu gạo, thì cũng phải xuất khẩu bún khô và mì ăn liền, xuất khẩu cà phê hạt thì cũng phải xuất khẩu cà phê hòa tan, xuất khẩu hải sản đông lạnh thì cũng phải xuất khẩu tôm bao bột sơ chế, tức là các sản phẩm đã được chế biến khác , để qua đó tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam.

RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Biển Đông vẫn dậy sóng trên mạng

Bài đăng ngày 26/11/2008 Cập nhật lần cuối ngày 27/11/2008 14:35 TU

Bản đồ Hoàng Sa

Bản đồ Hoàng Sa

Ngày 18 tháng 11 vừa qua, một chiến hạm của Trung Quốc mang tên ''Trịnh Hòa'' đã cặp bến cảng Đà Nẳng, mở đầu chuyến viếng thăm Việt Nam trong năm ngày. Nhưng trong khi chuyến viếng thăm này được Tân Hoa Xã loan báo ngay ngày hôm đó, thì báo chí Việt Nam hoàn toàn im lặng. Ngược lại, sự kiện này một lần nữa đã gây tranh luận trên các trang Web, trang blog tiếng Việt trong và ngoài nước.

Chỉ cần lên trang web Đàn Chim Việt (http://www.dcvonline.net/ ) là ta có thể thấy nhiều phản ứng về sự kiện này, như một độc giả đã viết:

Trung Cộng có một chiếc tàu này hay hơn một chiếc? Nếu có hơn một chiếc khác sao không cử tới ? Việt nam có thể viện một lí do nào đó để từ chối chiếc tàu có cái tên NHẠY CẢM này không?

Đây chỉ là một chiếc tàu chiến hạng tầm trung, sao lại sử dụng tới các “Các quan chức chính phủ và quốc phòng Việt Nam đã tiếp đón”?

Một blogger tên là Đinh Tấn Lực nhân dịp này đã cho phổ biến trên mạng một bài viết nhan đề : ''Trịnh Hoà là ai?'' Tác giả nhắc lại Trịnh Hòa là một thuỷ sư đô đốc của Trung Quốc cách đây 600 năm và cùng thời với các chuyến hải hành của Trịnh Hòa là giai đoạn Nhà Minh chiếm đóng Việt Nam, gây biết bao đau thương, tang tóc cho dân ta. Thành ra, chính quyền Việt Nam không muốn đưa tin nhiều về chuyến viếng thăm Việt Nam của chiến hạm Trịnh Hòa cũng là điều dễ hiểu. Bài viết của blogger Đinh Tấn Lực đã nhanh chóng được phổ biến trên mạng.

Quần đảo Hoàng Sa

Quần đảo Hoàng Sa

Trong tình hình mà trên mặt báo chí chính thức, tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc vẫn còn là chủ để nhạy cảm, nếu không muốn nói là cấm kỵ, thì đề tài này lại càng là một trong những đề tài tranh luận nhiều nhất trên mạng, kể cả trên những trang Web mà thoạt nhìn chẳng có liên quan gì đến chính trị, lịch sử.

Biển Đông càng dậy sóng trên mạng vào những thời điểm như phong trào biểu tình phản đối Trung Quốc vào đầu tháng 12 năm ngoái sau khi Bắc Kinh quyết định thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trong khi báo chí chính thức trong nước chỉ đưa tin có vài dòng, thì trên mạng, nhiều '' thông tín viên '' đã tường trình chi tiết diễn tiến những cuộc biểu tình đó, như bài viết sau đây của blogger Bulldog :

"Vậy là cuộc biểu tình trước toà lãnh sự quán Trung Quốc tại Sài Gòn, phản đối hành động ngang ngược cưỡng chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã diễn ra đúng như dự kiến. Hàng trăm sinh viên, văn nghệ sĩ vỉa hè, nhà báo tự do…, với đầy đủ quốc kì, khẩu hiệu, băng rôn. Điều này quả là hơi bất ngờ với tôi, vì trước khi đi, tôi dự đoán là nó sẽ không thể diễn ra

Mở màn cho cuộc biểu tình, ai đó đã rải lá quốc kì Trung Hoa ra vỉa hè (Ngã tư Phạm Ngọc Thạch – Nguyễn Thị Minh Khai, hông Nhà Văn hoá Thanh niên), và một số người đạp lên đó. Tiếp đó, đoàn người diễu một vòng sang phía vỉa hè Toà Lãnh sự (39 Nguyễn Thị Minh Khai) rồi cố định đội hình phía đối diện cổng chính Toà Lãnh sự. Trung tâm của đoàn biểu tình là những sinh viên, mặt sáng ngời tràn đầy nhiệt huyết. Họ đồng thanh hát Quốc ca, rồi hô vang khẩu hiệu “Trả lại Trường Sa”, “Trả lại Hoàng Sa”, “Đả đảo Trung Quốc” v.v...

Trong lúc đó, tôi đếm, không dưới ba chiếc xe du lịch loại lớn đi qua, trên xe là những du khách nước ngoài. Họ thi nhau chụp hình, quay phim. Thật là vui!

Lúc này cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông được triển khai rất đông đảo (quên chưa nói, trước đó, lực lượng cảnh sát chìm đã xuất hiện rất nhiều), họ dẹp thông thoáng bốn góc ngã tư Nguyễn Thị Minh Khai – Phạm Ngọc Thạch đề phòng cuộc biểu tình thêm khí thế và nhân rộng bởi những người tò mò.

Tôi, nhà thơ Phan Bá Thọ và nghệ sĩ thị giác Huy “béo” đang ngồi trên vỉa hè thì một cảch sát chìm ra hỏi: “Mấy ông ngồi đây làm gì?”, chúng tôi trả lời: “Ngồi chơi”. Lập tức một cảnh sát giao thông ra yêu cầu chúng tôi đi chỗ khác. Tôi hỏi anh cảnh sát giao thông: “Họ đang làm gì thế nhỉ?” Anh cảnh sát trả lời: “Họ biểu tình phản đối Tầu khựa cướp đảo của mình”. Tôi hỏi tiếp: “Việc làm của họ đúng không anh?”. Anh trả lời rất dõng dạc: “Đúng quá đi chớ!” Rồi anh nói tiếp, vừa nói vừa chỉ vào ngực “Nếu không mặc bộ quần áo này, tôi cũng tham gia với họ”.

Tôi bắt tay anh thật chặt.

Và tôi rất thông cảm với anh. Chỉ vì bộ quần áo, bộ sắc phục của một cơ quan đại diện quyền lực chính quyền, đã ngăn cản anh làm một điều đúng.

Cuộc biểu tình này chắc chắn không thể đòi lại được hai quần đảo đã bị cưỡng chiếm, nhưng nó mang nhiều ý nghĩa to lớn, mà ý nghĩa dễ nhìn thấy nhất là, người dân Việt Nam không chỉ biết lải nhải như một con vẹt: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng…”

Một thanh niên biểu tình đối mặt với một công an ở Hà Nội

Một thanh niên biểu tình đối mặt với một công an ở Hà Nội

Biển Đông cũng đã dậy sóng một lần nữa vào thời điểm sắp diễn ra lễ rước đuốc Thế vận hội Bắc Kinh ở Sài Gòn vào cuối tháng tư vừa qua, nhất là khi mọi người được biết là Trung Quốc đã công bố bản đồ lộ trình rước đuốc, trong đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị bao gồm trong lãnh thổ của họ, đồng thời, lại có tin đồn là Bắc Kinh sẽ cho tổ chức rước đuốc ngang qua Hoàng Sa ( tin đồn này sau đó được biết là không có căn cứ ). Dân trên mạng cũng đã phản ứng căm giận sau khi một website chính thức của Trung Quốc đăng bài trình bày chi tiết một kế hoạch tấn công Việt Nam.

Hoàng Sa Trường Sa dĩ nhiên cũng là chủ đề thường xuyên thu hút cư dân trên mạng trêng những diễn đàn như X- Cafe( http://www.x-cafevn.org/ ). Nhưng có lẽ nơi tập trung nhiều thông tin nhất về vấn đề chủ quyền biển Đông, đó là Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa ( http://hoangsa.org/ ) được thành lập cách đây hơn một năm. Ngoài phần blog chuyên cung cấp những tin thời sự về biển Đông, về Hoàng Sa, Trường Sa, Trung tâm dữ liệu này còn có một diễn đàn để mọi người có thể trao đổi với nhau những suy nghĩ về tinh thần dân tộc, về tương lai của đất nước. Ngoài ra còn phải kể đến Quỹ nghiên cứu biển Đông ( http://www.seasfoundation.org/), vừa mớI được thành lập ngày 14/12/2007.

Không chỉ tranh luận vớI nhau, dân trên mạng còn tìm đọc những bài viết của những học giả có tiếng ở Việt Nam, như bài của sử gia Dương Trung Quốc , nhan đề '' Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam'', đăng trên báo điện tử Việtnam Net ngày 8/12/200/ hay bài phát biểu của giáo sư Tương Lai tại HộI nghị Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào đầu năm nay. Nhưng có lẻ tên tuổI được cư dân trên mạng nể trọng nhất khi bàn về vấn đề chủ quyền biển Đông, đó là tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, người mà từ bao năm qua vẫn miệt mài nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa và là tác giả một luận án tiến sĩ về đề tài này trước năm 1975. Trong bài viết gởi cho diễn đàn Trung Tâm Dữ Liệu Hoàng Sa, ông Nguyễn Nhã tâm sự :

"Tôi rất xúc động. Tôi bắt đầu nghiên cứu Hoàng Sa, khi tôi tròn 35 tuổi. Sau 33 năm lại được giới trẻ tiếp bước.

Tôi làm luận án tiến sĩ là để dâng cho Tổ Quốc, để trả món nợ của người tri thức đối với Tổ Quốc, đối với Quê hương Đất nước. Tôi chỉ là một nhà nghiên cứu lấy sự thực lịch sử là đối tượng nghiên cứu, là lý tưởng theo đuổi, là phương châm hành động. Song cũng là một công dân, nên tôi phải làm tròn bổn phận của "một kẻ thất phu". Tôi sẵn sàng để bất cứ ai sử dụng toàn văn Luận án tiến sĩ lịch sử của tôi cũng như những bài viết đã phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Tôi rất mong tất cả được dịch ra ngoại ngữ trong đó có Tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nhật... và được gửi cho cấp lãnh đạo của Trung Quốc và giới nghiên cứu Trung Quốc cũng như thế giới để mọi người không còn mơ hồ, nghi ngờ gì nữa về sự thật chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa. Tôi cũng mong tất cả giới trẻ Việt Nam từ học sinh đến sinh viên đều cùng biết rõ lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã Photo: Tuổi Trẻ

Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Photo: Tuổi Trẻ

Tôi đã phát biểu nếu cần phải mất một ngàn năm như trước đây nước ta bị Bắc thuộc thì cũng sẽ có thời cơ chúng ta giành lại được độc lập. Chính thời cơ năm 1974, sau Thông cáo chung năm 1972 ở Thượng Hải, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã tuyên bố đây là việc nội bộ của hai nước để không can thiệp giúp đồng minh VNCH của Hoa Kỳ nữa. GS Trần Văn Giàu đã nói rằng thời đại điện tử không phải mất 1000 năm nữa đâu. Chúng ta hãy chờ xem tương lai ra sao. Song người Việt Nam phải đoàn kết thì mới mong thành công.

Tôi rất tôn trọng những ai làm chinh trị vì đều có mục tiêu riêng của họ. Có khi những mục tiêu chính trị và những mục tiêu của người nghiên cứu giống nhau, sẽ ủng hộ nhau. Song nếu có sự khác biệt cũng là chuyện bình thường, ai phải lo phận sự người ấy.

Chào thân ái,

Nguyễn Nhã, Tiến sĩ sử học"

Hiện giờ, luận án của tiến sĩ Nguyễn Nhã về Hoàng Sa đang được dịch sang tiếng Anh để phổ biến cho thế giới và ông vẫn tiếp tục đóng góp những bài viết về chủ quyền biển Đông, như hai bài mà tiến sĩ Nguyễn Nhã vừa gởi đến RFI Việt ngữ:

Dư âm chuyến viếng thăm cảng Đà Nẳng của tuần dương hạm Trịnh Hòa.

Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa từ đầu thế kỹ XVII đến thời Pháp thuộc ( Bài tham luận tại Hội thảo về Chúa Nguyễn- Triều Nguyễn do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tổ chức trong hai ngày 18 và 19/11/2008 )

Việt Nam : tham nhũng trong tầm ngắm của các nhà tài trợ

Bài đăng ngày 01/12/2008 Cập nhật lần cuối ngày 03/12/2008 14:07 TU

Công trình Đại lộ Đông Tây

Công trình Đại lộ Đông Tây

Tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ vào tháng 12 năm ngoái, đại sứ Thụy Điển đã cho rằng: « Trong tương lai dài hạn, điều quan trọng là phải tạo ra một thế hệ trẻ có kiến thức và không nhân nhượng với tham nhũng. Thế hệ này cần nhận thức được ảnh hưởng của tham nhũng đối với phát triển quốc gia nói chung và đối với mỗi cá nhân nói riêng. Cần khuyến khích và khen thưởng những cá nhân không khoan nhượng với tham nhũng dưới bất kì hình thức nào và nói ‘không’ với tham nhũng. »

Thế nhưng, thay vì khuyến khích và khen thưởng các các nhân không khoan nhượng với tham nhũng, Việt Nam lại kết án tù hai phóng viên đã đi hàng đầu trong việc loan tin về vụ tham nhũng PMU 18, một vụ tham nhũng có liên hệ đến viện trợ ODA ( hỗ trợ tài chính phát triển ) của quốc tế.

Vào tháng 10 vừa qua, hai phóng viên của tờ Thanh Niên, Nguyễn Việt Chiến và Tuổi Trẻ, Nguyễn Văn Hải đã ra tòa với tội danh '' lợi dụng quyền tự do dân chủ '' vì đã tham gia điều tra về vụ tham nhũng PMU 18. Nhà báo Nguyễn Việt Chiến đã bị tuyên án 2 năm tù giam, còn Nguyễn Văn Hải được trả tự do, nhưng bị phạt hai năm cải tạo. Phiên xử này đã bị các tổ chức nhân quyền quốc tế và các chính phủ phương Tây cực lực chỉ trích.

Hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến (T) và Nguyễn Văn Hải (P) ở phiên tòa ngày 14/10/2008 tại Hà Nội. (Ảnh chụp từ màn ảnh truyền hình : Reuters)

Hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến (T) và Nguyễn Văn Hải (P) ở phiên tòa ngày 14/10/2008 tại Hà Nội.
(Ảnh chụp từ màn ảnh truyền hình : Reuters)

Trong cuộc đối thoại về chống tham nhũng diễn ra ngày 28 tháng 11 vừa qua với chính phủ Việt Nam, các nhà tài trợ đã một lần nữa bày tỏ sự bất bình của họ trước việc các phóng viên chống tham nhũng bị kết án như những tội phạm. Cuộc đối thoại về phòng chống tham nhũng mỗi năm vẫn được tổ chức trước Hội nghị tư vấn nhóm các nhà tài trợ ( mà năm nay sẽ diễn ra trong hai ngày 4 và 5 tháng 12 ).

Cuộc đối thoại năm nay đã chọn chủ đề ''Vai trò của báo chí trong phòng, chống tham nhũng'', bởi vì ai cũng thấy rõ báo chí được coi là một yếu tố trọng tâm trong cuộc chiến chống tham nhũng. Nhưng theo lời đại sứ Thụy Sĩ, Jean-Hubert Lebert, được hãng tin AFP trích dẫn, vụ kết án hai phóng viên Tuổi Trẻ và Thanh Niên ''không chỉ có tác động rất nặng nề đối với giới nhà báo trong nước, mà còn gây tác hại cho hình ảnh của Việt Nam đối với thế giới, bởi vì nó khiến cho người ta có cảm tưởng rằng ở Việt Nam, hễ ai mà viết về tham nhũng đều có thể vào tù''.

Về phần đại biện của sứ quán Hà Lan, ông Bengt Van Loosdrecht, thì cho rằng nếu hoạt động của truyền thông dể bị quy kết thành tội hình sự, có thể là họ sẽ không thể tác nghiệp một cách thoải mái. Theo nhà ngoại giao này, ''các nhà báo cần được tiếp cận thông tin dễ dàng và có đủ tự tin để có thể tự do bày tỏ quan điểm mà không sự bị trừng phạt ''.

Đại diện của đại sứ quán Na Uy, Kjell Storlokker khẳng định : '' Không thể nhằm bắn vào người đưa tin chống tham tham nhũng''. Nói chung, theo hãng tin AFP, các nhà tài trợ rất lo ngại trước việc hình sự hóa hoạt động báo chí, trong khi mà môi trường pháp lý của Việt Nam chưa đủ chặt chẻ để bảo vệ giới nhà báo.

Dân Hà Nam biểu tình chống tham nhũng.Photo: Vietnam Exodus

Dân Hà Nam biểu tình chống tham nhũng.
Photo: Vietnam Exodus

Cũng trong cuộc đối thoại đó, ông Pascal Fabie, đặc trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương của tổ chức Transparency International, nhấn mạnh là, trong việc chống tham nhũng, tổ chức này muốn '' thấy những con cá lớn cũng bị trừng trị như những con cá nhỏ''. Hiện giờ, Transparency International vẫn xếp Việt Nam vào hạng chưa tớI 3 điểm trên 10, tức là tham nhũng nặng nề.

Đáp lại những lời chỉ trích, những thắc mắc nói trên của các nhà tài trợ, Tổng thanh tra Trần Văn Truyền khẳng định rằng không hề có chuyện quyết tâm chống tham nhũng bị chùng xuống và các nhà báo nói trên đã bị xử lý chỉ vì họ có "sai phạm'. Ông Truyền nhìn nhận rằng sau vụ này, các nhà báo ngán ngại, không còn hăng hái chống tham nhũng như trước nữa. Ông Tổng thanh tra cam kết là trong thời gian tới, chính phủ sẽ giảm bớt danh mục thông tin mật, tức là chỉ những tin tức liên quan đến an minh quốc gia mới được coi là '' mật ''.

Còn chánh văn phòng Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng Vũ Tiến Chiến thì giải thích hiện tượng ''chùng xuống'' là do việc phòng chống tham nhũng đang đi vào ''chiều sâu'' ( ! ). Về phần thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn thì khẳng định là không có văn bản, quy định nào hạn chế hay cản trở việc đưa tin về chống tham nhũng, mà đó là phụ vào ''trình độ và năng lực của nhà báo''. Ông cũng thừa nhận là ''đôi khi có sự ngại ngần của một số cán bộ công chức khi tiếp cận với báo chí ''.

Trong cuộc phỏng vấn với báo điện tử VietnamNet bên lề cuộc đối thoại chống tham nhũng, đại sứ Mỹ tại Hà Nội Michael Michalak đã nhấn mạnh rằng : '' Càng minh bạch, cơ hội dành cho tham nhũng sẽ càng giảm. Minh bạch thông tin là một trong những chìa khóa thực chất để chống tham nhũng ở Việt Nam.'' Theo ông Michalak, ''bảo vệ người tiết lộ thông tin cũng là một cách để chính phủ tăng cường sự minh bạch thông tin ; cho phép mọi người có thể sẳng sàng tiết lộ thông tin cũng là một cách chống tham nhũng hiệu quả.'' Đại sứ Mỹ cam kết là Hoa Kỳ sẳn sàng tư vấn kỹ thuật cho Việt Nam về những chuẩn mực quốc tế trong việc soạn thảo luật bảo vệ người tiết lộ thông tin về tham nhũng.

Dưới con mắt của các nhà tài trợ, Việt Nam tuy đã ban hành nhiều luật phòng chống tham nhũng, đã lập Ban chỉ đạo trung ương, nhưng đó chỉ mới là hoàn thiện về thể chế, chứ chưa đi vào những việc cụ thể. Ví dụ như đã có quy định các quan chức phải kê khai tài sản, nhưng lại không công khai cho dân chúng biết; chỉ có các quan chức cấp thấp mới bị xử lý về tham nhũng; vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phòng chống tham nhũng còn mờ nhạt; trưởng ban phòng chống tham nhũng lại là lãnh đạo của điạ phương.

Âm vang của vụ PMU 18 chưa dứt thì lại có thêm một vụ tham nhũng khác liên quan đến viện trợ ngoại quốc, đó là vụ PCI. Các quan chức của công ty Nhật Bản đã hối lộ cho ông Huỳnh Ngọc Sỹ, giám đốc Ban quản lý dự án Đại lộ Đông Tây, để nhận được các hợp động tư vấn cho dự án này. Tổng số tiền PCI hối lộ cho ông Huỳnh Ngọc Sĩ lên tới lên tới 820 ngàn đôla. Phía Nhật đã bắt bốn cựu quan chức của PCI liên quan đến vụ hối lộ này. Vấn đề ở chổ là vụ án đã được báo chí Nhật Bản đăng tải từ tháng sáu, nhưng mãi đến tháng 11, phía Việt Nam mới có phản ứng bằng cách đình chỉ công tác ông Huỳnh Ngọc Sĩ '' để phục vụ điều tra''.

Tuy phía Việt Nam vẫn cho rằng đây '' chỉ là trường hợp cá biệt '', nhưng rõ ràng là vụ PCI một lần nữa đã gây tác hại đến hình ảnh của Việt Nam đối với quốc tế. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ VietnamNet, tham tán đại sứ quán Thụy Điển, bà Molly Lien, đã tuyên bố thẳng thừng rằng: '' Tham nhũng trong các dự án có sử dụng nguồn vốn ODA là điều không thể chấp nhận được''. Bà Molly Lien nói rằng tiền viện trợ của Thụy Điển là tiền người dân Thụy Điển đóng thuế. Những khoản tiền đó được sử dụng để giúp Việt Nam xóa đói giảm nghèo, xây dựng xã hội dân chủ và không có tham nhũng. Các nhà tài trợ chắc chắn là rất lo ngại khi thấy vốn ODA đã không được sử dụng vào những mục đích nêu trên. Cho nên, phòng chống tham nhũng một lần nữa sẽ là một trong những chủ đề trọng tâm của Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ khai mạc ngày mai tại Hà Nội và sẽ diễn ra trong hai ngày.

Sở hữu Nhà nước về đất đai gây cản trở phát triển kinh tế ở Việt Nam

Thanh Phương

Bài đăng ngày 15/12/2008 Cập nhật lần cuối ngày 16/12/2008 14:44 TU

Ngày 8 tháng 12 vừa qua, tám giáo dân thuộc giáo xứ Thái Hà, Hà Nội đã bị kết án tù treo hoặc cải tạo không giam giữ vì tội '' hũy hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng'', chỉ vì họ đã tham gia những cuộc tập hợp cầu nguyện đòi lại khu đất của giáo xứ Thái Hà. Nếu đặt qua một bên khía cạnh tôn giáo thì tranh chấp này cũng giống như biết bao những vụ khiếu kiện về đất đai khác ở Việt Nam hiện nay. Những tranh chấp này sẽ còn tiếp diễn và sẽ không bao giờ giải quyết được do mâu thuẩn ngày càng lộ rõ giữa khái niệm ''sở hữu toàn dân '' với sự phát triển kinh tế theo hướng thị trường ở Việt Nam.

Điều 5 Luật Đất đai năm 1993 tiếp tục khẳng định "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu". Như vậy có nghĩa là pháp luật đã quy định không một ai có quyền sở hữu cá nhân về đất đai. Nhà nước chỉ công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất của người sử dụng hợp pháp. Đất đai không là hàng hóa nhưng quyền sử dụng lại là hàng hóa đặc biệt.

Chính từ cái sự rối rắm này mà vấn đề đất đai ngày càng trở nên nóng bỏng ở Việt Nam và là nguyên nhân của phần lớn các vụ khiếu kiện và các vụ tham nhũng ở Việt Nam. Trước tình hình bế tắc trong vụ giải quyết tranh chấp đất đai giữa Giáo hội với Nhà nước, đặc biệt là qua vụ Tòa khâm sứ củ và giáo xứ Thái Hà, ngay chính Hội đồng giám mục Việt Nam ngày 27 tháng 9 vừa qua đã công bố quan điểm về vấn đề này. Văn bản của Hội đồng giám mục ghi rõ :

« Luật về đất đai tuy đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là chưa quan tâm đến quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ càng làm cho tình hình tệ hại hơn. Thiết nghĩ không thể có một giải quyết tận gốc nếu không quan tâm đến những yếu tố này.»

Giáo dân Thái Hà tập hợp cầu nguyện đòi lại đất cho giáo xứ.

Giáo dân Thái Hà tập hợp cầu nguyện đòi lại đất cho giáo xứ.

Theo Hội đồng giám mục Việt Nam, khi sửa đổi luật đất đai, " thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ, đồng thời người dân cũng phải ý thức trách nhiệm của mình đối với xã hội. Đòi hỏi này lại càng khẩn thiết hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp sống chung của thế giới. Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước. »

Quyền tư hữu đất đai lại càng cần phải được công nhận trong bối cảnh mà ở Việt Nam hiện nay, quyền sở hữu toàn dân về đất đai thật ra chỉ là hư quyền. Đó là điều mà một số đại biểu Quốc hội đã nêu lên ngay từ năm 2003, khi thảo luận về Luật đất đai sửa đổi. Vào lúc đó, đại biểu Nguyễn Lân Dũng đã cho rằng « sở hữu toàn dân lẽ ra là thực quyền nhưng lại bị biến thành hư quyền bởi nhân dân không được tham khảo ý kiến trong mọi chuyện liên quan tới quản lý đất đai. Theo ông Nguyễn Lân Dũng, ‘’chỉ những người có quyền, có chức quyết định mọi chuyện. Toàn dân không được hỏi ý kiến khi chính quyền thực hiện công việc rất quan trọng đó. "

Chia sẻ quan điểm với giáo sư Nguyễn Lân Dũng, nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, khái niệm về quyền đại diện, Nhà nước là đại diện cho sở hữu toàn dân, cho thấy thực chất nó là một đặc quyền. Theo ông, "tình trạng khiếu kiện của dân, sự xuất hiện địa chủ mới là bằng chứng. Nếu không có chế tài đủ mạnh, sự giám sát đủ hiệu lực thì Luật Đất đai sẽ được khai thác như một lợi khí cho một nhóm người có đặc quyền".

Cũng vào thời điểm đó, luật gia Cao Bá Khoát đã nêu một ý kiến không khác gì hai vị đại biểu nói trên : ‘’ Điều 17, Hiến pháp năm 1992 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng Hiến pháp 1992 chưa giải thích sở hữu toàn dân là thế nào? Cho đến nay chưa có văn bản nào giải thích khái niệm sở hữu toàn dân. Luật Đất đai 1993 tự ràng buộc sở hữu toàn dân đồng nghĩa với sở hữu nhà nước. Nhiều đại biểu Quốc hội rất muốn xác lập quyền sở hữu đất ở cho cá nhân nhưng ngại đụng đến Hiến pháp. Nhiều người cho rằng quyền sở hữu toàn dân là quyền ảo, hư quyền, người đại diện quyền sở hữu toàn dân là đặc quyền còn người sử dụng chỉ là thực quyền. Có đặc quyền ắt có đặc lợi, có phải điều đó đã dẫn đến việc không lý giải sở hữu toàn dân về đất đai hay không? »

Đó là vào thời điểm năm 2003, nay chúng ta sắp bước qua năm 2008, tình trạng sỡ hữu đất đai lại còn rối mù thêm. Trả lời phỏng vấn Vietnam Net ngày 15/9, giáo sư tiến sĩ Tô Duy Hợp, nguyên Trưởng Phòng Xã hội học nông thôn, Viện xã hội học, đã ghi nhận rằng :

« Bao nhiêu năm nay, ruộng đất của chúng ta vẫn ở trong tình trạng “công hữu tư dụng”. Nhà nước sở hữu nhưng người dân được sử dụng và có thể trao đổi qua lại thông qua chuyển nhượng. Tìm giải pháp đột phá phải từ đất đai. Nhà nước chỉ cần quản lý ruộng đất bằng luật pháp, còn hãy để nó vận hành theo thị trường, theo đúng quy luật. Còn nếu Nhà nước sở hữu, thì phải quản lý chặt chẽ. Đằng này, quản lý nhưng vẫn có nhiều kẽ hở. Nên trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, bởi đây là động lực để phát triển xã hội và giải phóng sức sản xuất. »

Trong một bài viết tựa đề "Sở hữu đất đai và phát triển kinh tế", đăng trên trang Web của tờ Tia Sáng ngày 3 tháng 12 vừa qua, luật sư Lê Công Định ở Sài Gòn đã nhấn mạnh rằng khi nền kinh tế đã chuyển đổi theo hướng thị trường, định chế quyền sử dụng đất đã và đang gây ra một số trở ngại cho sự phát triển của nền kinh tế và đe doạ sự ổn định xã hội . Luật sư Định viết rằng : « Bao nhiêu năm nay, ruộng đất của chúng ta vẫn ở trong tình trạng “công hữu tư dụng”. Nhà nước sở hữu nhưng người dân được sử dụng và có thể trao đổi qua lại thông qua chuyển nhượng. Tìm giải pháp đột phá phải từ đất đai. Nhà nước chỉ cần quản lý ruộng đất bằng luật pháp, còn hãy để nó vận hành theo thị trường, theo đúng quy luật. Còn nếu Nhà nước sở hữu, thì phải quản lý chặt chẽ. Đằng này, quản lý nhưng vẫn có nhiều kẽ hở. Nên trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, bởi đây là động lực để phát triển xã hội và giải phóng sức sản xuất."

Theo luật sư Lê Công Định : « Việc quy hoạch sử dụng đất tuy trên lý thuyết thuộc về Nhà nước, nhưng trên thực tế các quan chức địa chính địa phương toàn quyền quyết định, nên tình trạng lạm dụng quyền hành biến đất công thành đất tư, bồi thường di dời không thỏa đáng để trục lợi, nhận hối lộ để phê duyệt và chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong những dự án kinh doanh bất động sản đã và sẽ tiếp tục xảy ra trầm trọng, tạo nên bất mãn xã hội ngày càng sâu rộng. Điều này là nguyên nhân chính của nạn khiếu kiện đông người tại những thành phố lớn. »

Do vậy, luật sư Định cho rằng đã đến lúc phải nghiên cứu đến việc chấp nhận tư hữu hóa một phần các loại đất được sử dụng vào mục đích kinh doanh để phát triển kinh tế, hơn là tiếp tục duy trì tuyệt đối khái niệm sở hữu toàn dân như hiện nay.

Trả lời phỏng vấn RFI ngày 15/12, luật sư Lê Công Định cho biết lý do vì sao anh quan tâm đến vấn đề này:

" Vấn đề tư hữu thật ra tôi đã nghĩ đến khi còn ở trường luật, bởi vì lúc đó khi nghe nói đến khái niệm về quyền sử dụng đất, mà trong đó người có quyền sử dụng đất đó lại có quyền giống như là quyền sở hữu. Tôi thấy điều đó rất vô lý bởi lẻ quyền sở hữu là một khái niệm pháp lý hoàn toàn. Nó không chỉ có ở thời đại này mà nó đã có từ thời La Mã, cho nên không có lý do gì mà ở thời đại này, tại một quốc gia, người ta lại đổi quyền sở hữu thành quyền sử dụng chỉ vì một lý do thuần tuý chính trị, đó là đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Quyền sở hữu toàn dân cũng là một khái niệm rất là cưỡng ép và làm cho tôi ngay từ lúc ấy đã nghĩ rằng không thể có một khái niệm phi lý như vậy, cho nên tôi đã đi sâu vào nghiên cứu. Nhưng cách đây 20 năm, người ta chưa đặt vấn đề nhiều về quyền sỡ hữu tư nhân đất đai. Lý do là vào thời đó những mâu thuẩn xã hội chưa nhiều như bây giờ. Nhưng bây giờ, nền kinh tế đã phát triển đến mức mà đất đai trở thành một nguồn tài nguyên rất quan trọng. Không có nó thì không thể phát triển kinh tế được. Mâu thuẩn xã hội bộc lộ từ khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai, cũng như từ hệ quả của nó là quyền sử dụng đất, lại được đặt ra một cách nghiêm trọng.

Từ 5 năm trở lại đây, chúng ta thấy việc người dân đi khiếu kiện và người ta bức xúc đến mức mà người ta không còn tin tưởng vào hệ thống toà án nữa, bởi vì có mang đơn kiện đến toà thì toà cũng không giải quyết được. Tòa luôn luôn giải quyết theo hướng có lợi cho các cơ quan chính quyền điạ phương, hoặc có lợi cho các cán bộ điạ phương, những người thường gây các xáo trộn xã hội do những quyết định về đất đai gây mất lòng dân.

Rõ ràng là nguồn cội của mọi khiếu kiện đưa đến bất ổn xã hội này chính là xuất phát từ quan niệm sở hữu toàn dân về đất đai. Chính vì vậy mà tôi đã quy trở lại nghiên cứu về quyền tư hữu đất. "

Luật sư Lê Công Định

Luật sư Lê Công Định

Theo luật sư Định, sở hữu toàn dân về đất đai gây ra nhiều phí tôn vô ích cho xã hội:

"Do người dân chỉ có quyền sử dụng đất, cho nên những thủ tục hành chính đi kèm với việc chuyển giao quyền sử dụng đất trở nên rất nhiêu khê, gây ra nhiều phí tổn không cần thiết. Nếu ta có quyền sở hữu tư nhân về đất đai thì khi chuyền nhượng cho ai, ta chỉ cần ký hợp đồng chuyển thẳng cho người đó. Nhưng ở Việt Nam, quyền chuyển nhượng sở hữu đó không được công nhận. Anh sử dụng miếng đất này là do Nhà nước giao cho anh sử dụng miếng đất đó vào một mục đích cụ thể, như canh tác nông nghiệp hoặc xây nhà ở. Khi anh muốn bán miếng đất đó đi, thì đối với Nhà nước, anh không có nhu cầu sử dụng nữa thì trước hết anh trả lại miếng đất đó cho Nhà nước, rồi Nhà nước mới chuyển quyền sử dụng đất đó cho người mua.

Như vậy là thay vì đi thẳng một bước, anh phải đi mất hai bước, mà ở Việt Nam mất hai bước đó có nghĩa là anh phải mất bao nhiêu là tiền của, thời gian, công sức. Về phía xã hội thì phải nuôi cả một bộ máy hành chính để phục vụ hai, ba bước lòng vòng đó. Đó mà mới nói về những trường hợp đơn giản, còn đối với các dự án công nghiệp thì nhiêu khê hơn nữa, vì còn phải làm thêm một bước là chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nếu đất này trước đây được sử dụng vào mục đích canh tác nông nghiệp.

Như vậy chỉ có một khái niệm mang tính ý thức hệ mà nó đẻ ra biết bao thứ nhiêu khê hành chính, gây nhiều tốn kém cho xã hội. Phải giảm những phí tổn xã hội thì nền kinh tế mới có đủ nội lực phát triển. Việt Nam đã nghèo nàn lạc hậu mà lại còn phải tốn rất nhiều chi phí để phát triển, như vậy càng ngày càng bị hụt hơi, đã ốm còn bị mất sức để ốm hơn nữa."

Cuối cùng, luật sư Lê Công Định đề nghị từ bỏ khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai mà nay rõ ràng là đã lỗi thời và như vậy phải sửa đổi Hiến pháp Việt Nam :

'' Vấn đề ở đây là ta có dám vứt bỏ một quan niệm lỗi thời, không còn thích hợp cho việc phát triển kinh tế hay không. Chúng ta không nên tiếp tục bám víu vào một cái học thuyết nào đó nữa, mà trước mắt phải giải quyết những nhu cầu về về phát triển kinh tế, về dân sinh. Nếu không tập trung làm những việc đó thì xã hội sẽ ngày càng bất ổn. Nếu chấp nhập từ bỏ quan niệm lỗi thời về sỡ hữu đất đai thì không chỉ phải sửa Luật đất đai, mà còn phải sửa luôn cả Hiến pháp nữa. Hiến pháp hiện nay đã được ban hành từ mười mấy năm nay, khi nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn phôi thai. Nay kinh tế đã phát triển thêm hai ba bước nữa rồi. Đã đến lúc phải sửa đổi Hiến pháp thì nhân cơ hội đó sửa luôn cả quan niệm về sở hữu đất đai này."

8/4/09

Dự án bauxit Tây Nguyên: Làn sóng phản đối ngày càng mạnh

Kể từ khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng loan báo quyết định của chính phủ nhất quyết tiến hành dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên bất chấp những cảnh báo của các nhà khoa học về tác hại đối với môi trường và văn hóa ở vùng này, làn sóng phản đối dự án này ngày càng mạnh, nhất là vì nhiều người sợ rằng Trung Quốc trong tương lai sẽ kiểm soát vùng Tây Nguyên, đe doạ đến an ninh quốc phòng của Việt Nam.


Trong một bài báo đăng trên mạng ngày 28/3, tờ Tuổi Trẻ khi tường thuật về buổi tọa đàm về các biện pháp kích cầu trong xây dựng đã trích lời ông Trần Ngọc Hùng - chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN - khẳng định các nhà thầu VN đang rất lo vì thực tế cho thấy các dự án lớn khi đem ra đấu thầu hầu như đều rơi vào tay các nhà thầu nước ngoài và nhất là các nhà thầu Trung Quốc đang thắng thầu rất nhiều công trình trọng điểm về điện, ximăng, hóa chất... Ông Hùng nói: "Đáng quan tâm là các nhà thầu Trung Quốc thường đem theo hàng ngàn công nhân và đem cả thiết bị của họ sang, trong khi những thiết bị đó VN hoàn toàn có thể sản xuất được". Qua bài báo này, tờ Tuổi Trẻ tiết lộ là hàng chục ngàn công nhân Trung Quốc đã vào Việt Nam.

Trong số này có bao nhiêu công nhân Trung Quốc là việc cho dự án khai thác bauxit, hiện chưa có con số chính xác, nhưng có lẻ là rất đông, theo như quan sát của người dân địa phương tại Tây Nguyên. Một điều chắc chắn là các dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên đang được tiến hành rất khẩn trương.

Bằng chứng là gần đây hãng tin Dow Jones có loan tin là Tập đoàn Marubeni của Nhật vừa cho biết rằng họ và công ty China Aluminum International Engineering Co. (Trung Quốc), đã nhận được đơn đặt hàng để bán một nhà máy luyện nhôm sẽ được sử dụng ở Đắk Nông. Theo dự kiến, việc xây dựng nhà máy sẽ hoàn tất vào năm 2011 và khi vận hành sẽ đạt công suất 600,000 tấn alumima/năm.

Cũng hãng thông tấn Dow Jones cho biết, đây là đơn đặt hàng cho nhà máy luyện nhôm thứ nhì tại Việt Nam. Trước đây, đã có một hợp đồng được TKV (Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam) ký với Marubeni, trị giá 50 tỉ Yen (khoảng 52 triệu USD), để mua một nhà máy luyện nhôm đặt tại phía Bắc Sài Gòn.

Trong một bản tin đăng ngày 6/3, tờ Sài Gòn Tiếp Thị cho biết, công ty Alumin Nhân Cơ, thuộc TKV đã hoàn tất việc san ủi 200 héc ta đất để chuẩn bị xây dựng một nhà máy luyện oxid nhôm tại xã Nhân Cơ, huyện Đắk Rlấp, tỉnh Đắk Nông. Theo tờ Sài Gòn Tiếp Thị, "các hạng mục phụ trợ khác như văn phòng, đường dẫn vào nhà máy..., đã hoàn thành". Cũng theo Sài Gòn Tiếp Thị, "nhà máy luyện oxid nhôm vừa kể có công suất 600,000 tấn/năm và đại diện TKV, đại diện công ty Alumin Nhân Cơ đã lên đường sang Trung Quốc để ký hợp đồng xây dựng nhà máy với công ty cổ phần nhôm Trung Quốc (Challico). Nhà máy này theo dự kiến sẽ được khởi công xây dựng đầu quý 2 năm nay".

Trước tình hình đó, ngày càng có nhiều nhà trí thức lên tiếng phản đối dự án bauxit Tây Nguyên vì tác hại kinh khủng của nó đến môi trường. Gần đây nhất, nhà báo Lê Phú Khải từ Sài Gòn, với tư cách một đảng viên, đã viết thư đề ngày 18/3 gởi cho tổng bí thư Nông Đức Mạnh, trong đó có đoạn viết rằng:

‘’Vấn đề bauxite còn nguy hại gấp trăm ngàn lần cải cách ruộng đất, vì nó hủy diệt cả dân tộc ta như các nhà khoa học đã dự báo.Mười năm nữa sông Đồng Nai và những con sông khởi nguồn từ Tây Nguyên bị nhiễm bùn đỏ thì cả miền Trung, Đông Nam Bộ và TP.HCM lấy gì mà uống, những bà mẹ sẽ đẻ ra toàn quái thai. Vì sự tàn khốc đó mà Trung Quốc đã đóng cửa các mỏ bauxite của họ trên toàn quốc vào năm 2008.

Chính vì lẽ đó, với tư cách một công dân, một nhà báo lâu năm, tôi kiến nghị lên Ông Tổng Bí thư, người có trách nhiệm cao nhất của Đảng cầm quyền: Hãy đưa vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên ra bàn ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Nhà nước để dừng lại dự án này khi chưa quá muộn.’’


Nhưng chính là sự hiện diện đông đảo của người Trung Quốc ở Tây Nguyên đang gây lo ngại ngày càng nhiều về mặt an ninh quốc phòng. Trong một bức thư đề ngày 2/3 năm 2009 gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng ghi nhận là:

''Qua những vụ việc đất đai ở biên cương phía bắc, có thể dễ dàng nhận ra bài bản cướp đất của phương Bắc là: Lặng lẽ chiếm đất ở từng điểm nhỏ lẻ, rải rác, coi như đó chỉ là những vụ việc cục bộ, địa phương, nhà nước trung ương không hay biết! Nhà nước trung ương cứ cao giọng nói hữu hảo, cứ ban phát lời vàng hữu nghị nhưng cục bộ cứ lấn đất, chiếm đất, lặng lẽ mà chiếm, không gây ồn ào thành sự kiện quốc gia là được! Cả hệ thống truyền thông khổng lồ của ta cũng làm ngơ đồng lõa!''

Từ đó, nhà văn Phạm Đình Trọng càng đặt nghi vấn về quyết định của chính phủ cho phép Trung Quốc khai thác bauxít ở Tây Nguyên :

''Lạ quá, qui hoạch khai thác bô xít ở Tây Nguyên mới được Chính phủ phê duyệt, luận chứng kinh tế kĩ thuật đang soạn thảo, các nhà khoa học còn đang tranh luận nên hay không nên khai thác bô xít ở Tây Nguyên, thế mà công dân Trung Hoa, người cầm bản đồ, người mang cưa máy, người cuốc, người xẻng đã xục xạo ở Tây Nguyên!

Dư luận người dân Việt Nam đang lo ngại, đang xôn xao bàn tán về tính hiệu quả, về thảm hoạ môi trường khi khai thác bô xít Tây Nguyên và càng lo ngại hơn khi hàng ngàn trai tráng Trung Hoa sẽ có mặt đông đảo, trùng trùng đội ngũ ở Tây Nguyên, trung tâm bán đảo Đông Dương, khi đó ông Thủ tướng mới tuyên bố rằng khai thác bô xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà nước! Chủ trương lớn của đảng và nhà nước mà Quốc hội của dân chưa được bàn định thì người Trung Hoa đã xắn tay áo thực hiện chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta rồi! Điều này làm cho người dân phải đặt câu hỏi: Chủ trương lớn khai thác bô xít Tây Nguyên có thực sự vì đất nước Việt Nam, có thực sự vì nhân dân Việt Nam?''


Trước đó, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh cũng đã viết thư khuyên can thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và cảnh báo rằng :

''Chúng ta đều biết Trung Quốc xây dựng căn cứ hải quân hùng mạnh ở Tam Á đảo Hải Nam, nói thẳng ra là không phải để chống kẻ thù xâm lược nào, mà là đe doa Việt Nam và sẵn sàng chờ thời cơ thôn tính nốt Trường Sa của chúng ta, sau khi đã nhanh tay chiếm Hoàng Sa từ tay Chính quyền Sài Gòn. Nay lại để Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên thì sẽ có năm, bảy nghìn hoặc một vạn công nhân hay quân nhân Trung Quốc đến cư trú và hoạt động tại đây, sẽ hình thành một "thị trấn Trung Hoa", một "căn cứ quân sự" trên địa bàn chiến lược vô cùng xung yếu của chúng ta (vũ khí đưa vào thì không khó gì). Phía Bắc nước ta, trên biển có căn cứ hải quân hùng mạnh, phía Tây Nam nước ta có căn cứ lục quân trang bị đầy đủ thì độc lập, chủ quyền mà chúng ta đã phải đổi bằng hàng triệu sinh mạng cùng xương máu sẽ như thế nào ?!''

Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 6/4 vừa qua, nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt cũng chia sẻ những mối lo âu nói trên.

RFI: Kính thưa ông Bùi Minh Quốc, là một người sống ở Đà Lạt, cách không xa các mỏ bauxit, ông có suy nghĩ như thế nào về dự án khai thác bauxit Tây Nguyên?

Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Từ lâu tôi đã để ý đến dự án khai thác bauxit Tây Nguyên, mà cụ thể là trên đất Lâm Đồng, tức là điạ bàn huyện Bảo Lộc, cách Đà Lạt hơn 120 km. Những người từ Bảo Lộc về cho biết là từ nhiều tháng qua, người dân tại đây đã xầm xì bàn tán về việc Trung Quốc vào khai thác bauxit ở Tây Nguyên. Dư luận lại càng bàn tán nhiều hơn kể từ khi có ý kiến của đại tướng Võ Nguyên Giáp gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, rồi đến thư của thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, rồi ý kiến của các nhà khoa học, nhà trí thức như tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, giáo sư Phạm Duy Hiễn hay nhà văn Nguyên Ngọc.

Dự án này tàn phá môi trường không chỉ của Tây Nguyên, mà còn của những vùng bên dưới nữa. Vì đây là thượng nguồn sông Đồng Nai, cho nên nó ảnh hưởng đến toàn bộ vùng Đông Nam bộ và Sài Gòn. Rừng bị phá, tức là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên bị phá, vì như nhà văn Nguyên Ngọc có nói, văn hóa Tây Nguyên trước hết là văn hóa rừng.

Ý kiến của riêng tôi là dự án khai thác bauxit Tây Nguyên đã là một sai lầm, sai lầm này càng lớn hơn nữa vì đối tác được chọn lại là Trung Quốc, như tôi đã nhấn mạnh trong bài viết ''Chống diễn biến hòa bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc''

RFI: Xin ông giải thích rõ hơn về khái niệm này? Nguy cơ của dự án khai thác bauxit Tây Nguyên đối với an ninh quốc phòng của Việt Nam là như thế nào?

Bùi Minh Quốc: Đây là hình thức diễn biến hòa bình thông qua quan hệ giữa hai đảng. Bauxit Tây Nguyên chính là bằng chứng cho thấy tính chất nguy hiểm đối với an ninh quốc gia, như thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã nêu lên. Ở phía Đông Bắc, Trung Quốc xây một căn cứ hải quân rất mạnh ở đảo Hải Nam. Căn cứ này không phải để nhằm chống một cuộc xâm lăng nào, mà là chính là để đe doạ Việt Nam.

Bây giờ, họ thông qua việc hợp tác khai thác bauxit để đưa người vào Tây Nguyên. Theo những tin tức từ địa phương mà tôi nắm được, tại khu Bảo Lâm, người Trung Quốc đã vào đầy ở đó, đã xây nhà, xây cửa thành những khu vực riêng, đã tiến hành ũi đất khai thác. Đứng về mặt an ninh quốc phòng, thì từ Bảo Lâm đến Sài Gòn chỉ cách 180 km, mà theo đường chim bay thì còn ngắn hơn nữa. Những người Trung Quốc được đưa vào Tây Nguyên, nhìn bề ngoài là công nhân, nhưng bên trong họ là lính tráng thì sao ? Như ông Nguyễn Trọng Vĩnh có nói, họ đưa súng ống vào đâu có gì là khó ?

Nói chung, đây là một vấn đề chính trị rất phức tạp, rất nghiêm trọng, với nguy cơ mất nước đang hiện ra. Nước ta coi như đang bị một gọng kìm. Phía Đông Bắc là căn cứ hải quân, phía Tây Nguyên thì đang hình thành một địa bàn quân sự trá hình. Tôi hết sức lo lắng, nhất là vì cả đời tôi đã tham gia cứu quốc, nay lại thấy đất nước đùng trước một nguy cơ như thế, thì làm sao mà yên lòng được ?

Trao đổi với những bạn bè gần xa, tôi thấy ai cũng đều có tâm trạng như vậy, tức là hết sức lo lắng, bất bình và đều rất mong là những nhà lãnh đạo cho dừng ngay dự án này. Việc này theo lẽ phải được đưa ra cho toàn dân bàn, theo đúng chủ trương của Đảng là ''dân biết, dân bàn''. Hơn nữa, về mức số vốn đầu tư thì đây là dự án lớn nhất từ trước đến nay ở Việt Nam, mà lại liên quan đến an ninh quốc phòng. Thế mà, người dân đã bị đặt trước việc đã rồi. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, một người trong cuộc, thuộc Tập đoàn Than và Khoáng sản, một người biết rõ vấn đề từ rất lâu, đã nói thẳng ra rằng đây là một sai lầm cố ý của Tập đoàn Than Khoáng sản.

Có những dấu hiệu cho thấy là những người lãnh đạo cao nhất của đất nước này đang có một cái mắc míu, cái vướng víu gì đó, cho nên mới lệ thuộc vào Trung Quốc như thế, rồi cứ ngấm ngầm cho làm, bây giờ mới bùng ra là người Trung Quốc đã vào đầy ở Tây Nguyên rồi. Động thái của họ thật là khó hiểu.

RFI: Theo ông biết thì những ý kiến phản bác dự án bauxit nay còn được loan tải rộng rãi trên báo chí chính thức không?

Bùi Minh Quốc: Nói chung những ý kiến trên mặt báo chính thức là không phản ánh được tâm trạng của nhân dân và của đảng viên. Đảng đã có chủ trương ''dân biết, dân bàn'', nhưng biết và bàn ở đâu bây giờ? Báo chí Việt Nam rõ ràng là không thể hiện được'' dân biết, dân bàn'', nhất là đối với dự án khai thác bauxit Tây Nguyên này.

Theo tôi việc cần làm trước hết là phải thông tin cho nhau, đặc biệt là phổ biến thật rộng rãi những bức thư của tướng Giáp, tướng Vĩnh, tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, nhà văn Nguyên Ngọc, v.v... Những ý kiến ấy rất có cơ sở, rất có tính thuyết phục để phản bác chủ trương khai thác bauxit ở Tây Nguyên. Những ai chưa hiểu rõ vấn đề khi đọc qua những bức thư ấy thì sẽ hiểu rõ ngay. Từ đó, mọi người có thể cùng lên tiếng.

RFI: Gần đây, Hoà thượng Thích Quảng Độ, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, có kêu gọi ''biểu tình tại gia'' để phản đối dự án bauxit. Ông có ý kiến gì về lời kêu gọi này?

Bùi Minh Quốc: Tôi thấy ý kiến của Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng rất hay, nhưng còn tính khả thi của nó đến đâu thì ta sẽ xem. Tôi nghĩ là bằng cách này hay cách khác, mỗi người tùy hoàn cảnh, vị trí của mình, nên bày tỏ thái độ cá nhân cũng như thái độ tập thể.

RFI: Xin cám ơn nhà thơ Bùi Minh Quốc.

1/4/09

Đưa ẩm thực Việt Nam ra thế giới

Thanh Phương

Bài đăng ngày 04/03/2009 Cập nhật lần cuối ngày 06/03/2009 12:00 TU

Phở Việt Nam vẫn là món hấp dẫn đối với người nước ngoài.Photo: Wikipedia

Phở Việt Nam vẫn là món hấp dẫn đối với người nước ngoài.
Photo: Wikipedia

Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã vẫn được nhiều người biết đến như một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu ở Việt Nam về Hoàng Sa - Trường Sa, nhưng có lẽ ít ai biết rằng, ông cũng là người rất thiết tha với văn hóa Ẩm thực Việt Nam trong vai trò Viện trưởng Viện Nghiên cứu ẩm thực Việt Nam và nay mong ước của ông là đưa ẩm thực Việt Nam ra thế giới.

Trong một bài viết riêng cho RFI, tựa đề " Cùng nhau xây dựng Bếp Việt cho thế giới ", tiến sĩ Nguyễn Nhã nhắc lại rằng: " Việt Nam có nền ẩm thực lấy tự nhiên làm gốc từ nguyên vật liệu (rau, củ, quả, cá, gia vị tươi sống) đến cách nấu (luộc, hấp, nấu, tươi sống) giữ được hương vị tự nhiên và cách ăn cân bằng, hòa với tự nhiên, tùy theo ý thích mỗi người. Nền ẩm thực ngon lành lấy tự nhiên làm gốc ấy đã được các gia đình, đặc biệt người phụ nữ Việt Nam dày công xây dựng hàng ngàn năm nay. Món ăn ngon lành, nơi ăn ngon lành, người ăn ngon lành, lấy tự nhiên làm gốc , làm cho con người thăng hoa, tiến tới Chân, Thiện Mỹ, hòa với thiên nhiên, chính là thể hiện thực đạo."

Tiến sĩ Nguyễn Nhã Photo: Tuổi Trẻ

Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Photo: Tuổi Trẻ

Việc xây dựng văn hóa ẩm thực Việt Nam đối với tiến sĩ Nguyễn Nhã càng cần thiết trong lúc này bởi vì theo ông, " từ thế kỷ XIX, XX vừa qua, khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế của Phương Tây phát triển chưa từng thấy đã giúp ích cho loài người, song cũng tạo nhiều nguy cơ mang tính hủy diệt trái đât này cũng như đời sống con người."

Tiến sĩ Nguyễn Nhã nhấn mạnh rằng: "Việc con người trở về, hòa với thiên nhiên, cân bằng âm dương trong đó ẩm thực Việt Nam lấy gốc tự nhiên sẽ khiến Việt Nam vô cùng thuận lợi, và thay vì đi sau người ta về khoa học kỹ thuật sẽ đi tiên phong trở về với thiên nhiên, bảo vệ sức khỏe con người qua cách ăn uống lấy tự nhiên làm gốc của mình."

Viện Nghiên cứu Ẩm thực Việt Nam, mà tiến sĩ Nguyễn Nhã là Viện trưởng, đã được cấp giấy phép hoạt động từ tháng 10 năm 2007 và từ đó cho đến nay, các chuyên gia của Viện đã tổ chức gần 10 buổi tọa đàm. Chính là đúc kết từ thành quả của các buổi tọa đàm này cùng với ba hội thảo khoa học của của Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Ăn uống Việt Nam chủ trương, mà Viện nghiên cứu Ẩm thực Việt Nam vừa cho xuất bản cuối tháng 2 vừa qua cuốn sách " Bản Sắc Ẩm thực Việt Nam", do Tiến sĩ Nguyễn Nhã làm chủ biên.

Bìa sách Bản sắc Ẩm Thực Việt Nam

Bìa sách Bản sắc Ẩm Thực Việt Nam

Việc xuất bản cuốn sách nói trên là nằm trong khuôn khổ một chương trình mang tên. "Cùng nhau xây dựng Bếp Việt cho thế giới" mà Viện Nghiên cứu Ẩm thực Việt Nam khởi xướng. Tham vọng của Viện là xây dựng lý luận cho Văn hóa ẩm thực Việt Nam, Thực đạo Việt Nam và các chuẩn Việt Nam, ngon lành sạch. Ngoài “ Bản Sắc Ẩm Thực Việt Nam”, họ còn ấn hành những sách khác trong bộ sách Ẩm thực Toàn thư như Văn Hóa Phở, Thực đạo, Bún Việt…

Kế hoạch của Viện Nghiên cứu Ẩm thực Việt Nam còn dự trù những chương trình đào tạo và tu nghiệp đầu bếp Việt của các nhà hàng và gia đình Việt Nam, đưa du khách đến Việt Nam học nấu một số món ăn Việt để khi về nhà có thể nấu cho gia đình họ. Những người đi lao động ở nước ngoài và những du học sinh sẽ được học nấu một số món ăn được chuẩn hóa để quảng bá ra thế giới. Viện còn dự trù xuất khẩu các dụng cụ, phương tiện và chuyển giao công nghệ phục vụ ẩm thực Việt Nam ở nước ngoài.

Món ăn Việt Nam còn độc đáo nhờ cách trình bày

Món ăn Việt Nam còn độc đáo nhờ cách trình bày

Để cổ động cho chương trình nói trên, tiến sĩ Nguyễn Nhã gần đây đã viết một bức thư ngỏ gởi đến các cơ quan, tổ chức du lịch, các nhà hàng để để kêu gọi hợp tác nhằm đạt được mục tiêu "xây dựng hệ thống nhà hàng mang tính Việt Nam cao, tính ngon, tính lành sạch và cuối cùng tính thực đạo Việt Nam. " Mong ước sâu xa của tiến sĩ Nguyễn Nhã chính là qua việc xây dựng nên văn hóa ẩm thực Việt Nam, xây dựng Bếp Việt cho thế giới, sẽ tạo được "chất men niềm tự hào dân tộc để xây dựng đất nước hùng cường trong tương lai."